Hiển thị các bài đăng có nhãn Nam Quoc Son Ha. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nam Quoc Son Ha. Hiển thị tất cả bài đăng

Con đường “Nam quốc sơn hà” – Kỳ 7 (kỳ cuối): Nghĩa tình son sắt


Đi dọc con đường tuần tra biên giới, chúng tôi còn phát hiện ra một điều đặc biệt nữa. Đây còn là con đường bình yên, con đường của khát vọng hòa bình, hòa hiếu, hợp tác, phát triển với những câu chuyện thấm đẫm nghĩa tình anh em, đồng chí…

Tường thấp ngăn nước mưa xây trên đường tuần tra để chống nước mưa xói mòn đất bên nước bạn Lào (bên trái).

Tường thấp ngăn nước mưa xây trên đường tuần tra để chống nước mưa xói mòn đất bên nước bạn Lào (bên trái).

Những “tổng công trình sư” nghiêm túc nhất

Chiều biên giới bình yên, chiếc Land Cruiser dã chiến đưa chúng tôi tới xã Mường Lạc, thuộc huyện Sốp Cộp, nằm kề biên giới nước bạn Lào. Dừng chân trên đỉnh đồi đang ào ạt gió, Thiếu tướng Hoàng Kiền chỉ cho chúng tôi một con đường đất đỏ nằm cách con đường đoàn xe đang đi qua chừng vài chục mét, phía bên kia quả đồi:

- Con đường kia, mới năm ngoái thôi còn là đường… của nước mình đấy! Nhưng giờ lại là đường của nước bạn Lào!

Chuyện là, khi khảo sát, thiết kế con đường, ban đầu, đường được xác định nằm trên địa phận nước ta. Tuy nhiên, có ý kiến từ phía nước bạn cho rằng, con đường có thể đã “lẹm” sang nước bạn một ít. Lập tức, mệnh lệnh tạm dừng thi công. Trung tướng Phạm Hồng Lợi, khi đó là Phó tổng tham mưu trưởng đích thân lên kiểm tra. Ông thận trọng đối chiếu bản đồ với thực địa, dùng cả thiết bị vệ tinh, cộng với hỏi ý kiến các già làng, trưởng bản hai bên và ghi nhận thực tế đúng như phản ánh. Đoạn đường cũ được bỏ, phía Việt Nam tự giác lùi về vị trí “chuẩn”, mở đoạn đường mới.

Những người lãnh đạo cao cấp của quân đội ta từng được giao phụ trách, quản lý xây dựng tuyến đường như Thượng tướng Phan Trung Kiên, Thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên, Trung tướng Phạm Hồng Lợi, Trung tướng Nguyễn Trung Thu đều đã vào sinh ra tử trong chiến tranh, luôn trân trọng, giữ gìn, bảo vệ quyền làm chủ từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc. Nhưng những vị “tổng công trình sư” ấy cũng luôn nghiêm cẩn, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nước bạn. Đã có những đoạn đường còn vướng mắc, phải tạm dừng chờ các cấp có thẩm quyền của hai quốc gia giải quyết và cũng có đoạn đường được phía ta chủ động “chỉnh sửa” như đã kể trên.

Cũng trên tuyến đường mới mở ở tỉnh Sơn La, chúng tôi còn bắt gặp những rãnh nước nhỏ, xây sát nền đường trên đỉnh đèo. Đoạn đèo ấy, một bên là đất nước bạn Lào, một bên là đất Việt Nam. Đường làm xong, mỗi khi mưa to, nước mưa theo độ dốc của nền đường, chảy về bên đất bạn, có thể làm xói lở đất phía bên nước bạn. Dù chưa có một lời đề nghị của bạn, những người mở đường Việt Nam đã chủ động xây một đoạn tường ngắn ngăn nước, lát xi măng để khi có mưa, nước chảy theo “quy củ”, không làm xói lở đất bạn. Những bức tường ngăn nước nhỏ bé nhưng quả thực xiết bao tình nghĩa. Nó là biểu hiện của lòng tự trọng và cũng là biểu hiện của sự tôn trọng. Nó còn là biểu tượng của đức tính hòa hiếu của người Việt Nam, muốn là bạn của mọi dân tộc trên trái đất này và hơn thế, chúng ta luôn chủ động là người bạn tốt!

Cho bạn “mượn đường” để “mở đường”

Ngày mới đặt chân lên xã Mường Lèo (Sốp Cộp, Sơn La) để mở đường, Trung tá Nguyễn Văn Chung, Chỉ huy trưởng công trường của Công ty Hợp tác quốc tế 705 (Quân khu 2) đứng ngồi không yên vì gói thầu quá “xương xẩu”. Từ nơi mở đường vào bản người Việt gần nhất cũng hơn 60km, đường đi vô cùng khó khăn. Nơi gần nhất có dân thì lại là dân nước bạn Lào, ở bên kia biên giới, thuộc hai cụm bản Noong Nha và Na Xoong, thuộc tỉnh Luông Phra-băng. Để chở được một xe cát, xe đá vào công trường, nếu theo con đường độc nhất, sẽ phải mất cả ngày trời đánh vật với đèo dốc. Còn gạo, nước, đồ ăn, thức uống, chưa biết giải quyết ra sao. Vùng biên giới Mường Lèo thời tiết còn vô cùng khắc nghiệt, gió Lào thông thốc thổi như những con ngựa hoang hung dữ, giật tung cả lán trại vừa dựng, bỏng rát da người. Làm thế nào để lo tổ chức đời sống cho anh em? Tổ chức thế nào để có đủ nguyên vật liệu, bảo đảm thi công đúng tiến độ?

Chi bộ họp tìm kế sách giải quyết. Bài toán thường thấy là khó khăn sẽ dựa vào dân. Nhưng ở đây, dân xa tới hơn 60km, chỉ có dân nước bạn mà thôi. Mà liên quan đến dân nước bạn, sự “nhờ vả” không đơn thuần nữa, phải qua nhiều thủ tục đối ngoại ở tầm quốc gia. Mọi việc không hề đơn giản. Đã nhiều năm làm Đội trưởng Đội xây dựng cơ sở chính trị của Quân khu 2 giúp nước bạn Lào, anh Chung đã lăn lộn khắp tỉnh Hủa Phăn, được nhân dân các bộ tộc Lào coi như anh em ruột thịt. Công văn anh kiến nghị gửi cấp trên, thông qua con đường ngoại giao được chuyển tới lãnh đạo nước bạn nhanh chóng. Bạn trả lời, sẵn sàng giúp bộ đội Việt Nam mọi mặt, mọi việc cần thiết.

Anh Chung cùng đồng đội sang cụm bản Noong Nha, có hơn 500 nóc nhà giữa mùa ngô đang lên xanh mướt. Trưởng bản, ông Bun Thoong rất vui, ông nói tiếng Việt khá tốt:

- Tưởng ai chứ bộ đội Chung thì bà con vùng này đều biết. Bộ đội Chung cùng anh em sang đây đuổi phỉ, giúp bà con từ lúc tóc xanh, râu chưa mọc, giờ cần gì mình giúp ngay.

Rượu dọn ra, họ ngồi ôn nhiều kỷ niệm. Điều bất ngờ nhất, trưởng bản đã đề nghị lên lãnh đạo huyện, tỉnh và nhà nước, nhất trí phương án cho bộ đội Việt Nam “mượn” tạm con đường để vận chuyển nguyên vật liệu làm đường. Ông Bun Thoong nói thêm:

- Bên mình cũng chưa có đường lên biên giới, lên các rẫy vùng biên. Cho bộ đội Việt Nam mượn đường nhưng thật ra cũng là dịp nhờ bộ đội Việt Nam làm giúp cho một con đường!

Gọi là “mượn đường”, thực chất là làm tạm một con đường công vụ để vận chuyển vật liệu theo kiểu “đi vòng” qua đất bạn. Trung tá Nguyễn Văn Chung xúc động nhớ lại: “Hiếm tìm được người dân nơi đâu chân thành và tốt bụng như ở các bản Lào. Gần 20 năm hoạt động trong Đoàn chuyên gia giúp bạn cũng như bây giờ làm đường, chúng tôi cần gì là bà con giúp ngay, giúp nhiệt tình và đặc biệt không bao giờ đặt vấn đề đòi hỏi bồi thường, đền bù, dù là việc lớn hay nhỏ”. Tuyệt vời hơn, tỉnh bạn, nước bạn còn cho phép bộ đội Việt Nam được khai thác mỏ đá giáp biên giới Sốp Cộp, sau khi nộp thuế tài nguyên.

Anh Xẻng Tha Vi, 28 tuổi là một trong số hàng trăm thanh niên Lào được Công ty 705 tuyển dụng tham gia làm đường tuần tra biên giới.

Anh Xẻng Tha Vi, 28 tuổi là một trong số hàng trăm thanh niên Lào được Công ty 705 tuyển dụng tham gia làm đường tuần tra biên giới.

Con đường công vụ trên đất bạn kéo dài 15km, được mở đúng vào dịp các nương ngô đang trổ cờ, kết bắp. Rủi ro thay, do địa hình hiểm trở, nó đi vào đúng các nương ngô. Chờ hết mùa ngô thì mùa mưa sẽ tới. Còn chờ hết mùa mưa thì cơ hội làm đường sẽ lỡ hẳn một năm trời. “Nhân đã hòa” nhưng “thiên chưa thời”, “địa chưa lợi”, biết làm sao đây? Giãi bày với trưởng bản Bun Thoong, anh Chung nhận được câu trả lời: “Đã là anh em thì không phải lo!”. Mấy hôm sau, anh Chung và đồng đội kinh ngạc trước một cảnh tượng lạ lùng: Rất nhiều hộ dân đang cầm dao, cầm cuốc đi cùng trưởng bản tiến ra các nương ngô. Rồi, họ tự tay phá bỏ nương ngô đang mùa trổ cờ, cho bộ đội Việt Nam làm đường. Nhìn những thân ngô còn tươi xanh mơn mởn bị đốn ngang, ứa đầy nhựa, anh như thấy tim mình thắt lại. Bất giác, những giọt nước mắt trên gò má đen sạm nắng gió Lào cứ ứa ra, lăn dài…

Tình cảm chân thành, sâu đậm ấy khiến anh Chung và đồng đội càng trăn trở, tự nhủ mình phải làm sao cho thật tốt, cho xứng đáng với nhân dân các bộ tộc Lào anh em. Bãi đá khai thác bên bản Lào, chẳng cần canh gác, bà con không bao giờ đụng đến một thúng đá. Những hộ làm nhà, làm ngõ, bộ đội Việt Nam nhiệt tình tặng đá cho bà con. Rất nhiều thanh niên, trai tráng bên các bản Lào đã được tuyển dụng vào làm việc trên đường tuần tra biên giới, được trả lương cao hơn nhiều so với lao động tại địa phương.

Bữa cơm trưa ăn tại Mường Lạc rất ngon, có thịt lợn rừng, tiết canh, măng rừng nấu nướng rất chuẩn, khiến ai nấy đều khen. Tôi đi tìm “anh nuôi” thì thấy anh đang bê chảo cháy ra ngoài sân và gõ kẻng. Một đàn lợn rừng, lợn mẹ, lợn con dễ đến hơn 40 con lũ lượt chạy về. “Anh nuôi” là Xẻng Tha Vi, 28 tuổi, một thanh niên Lào đã gắn bó với đơn vị hai năm nay. Tha Vi là thợ lái máy xúc nhưng đợt này đang bảo dưỡng bê tông nên anh chuyển qua nấu ăn cho đơn vị, đã có vợ và hai con. Tha Vi cho biết, nhờ đi làm cùng bộ đội Việt Nam, anh đã xây được nhà, thường xuyên có tiền gửi về cho vợ. Lúc cao điểm, trên công trường của Công ty 705 ở Sơn La có hơn 60 thanh niên Lào làm việc, có cả lao động phổ thông và thợ lái xe, lái máy.

Bạn giúp mình thì mình cũng sẵn sàng giúp bạn bất cứ khi nào có thể. Nghĩ vậy nên những ngày sang mở đường giúp bạn, anh Đức, Giám đốc Công ty 705 ngỡ ngàng khi thấy một khoảng rừng hơn 10ha ở tỉnh Xiêng Khoảng nay trơ trụi, trở thành một bình địa rộng lớn. Hỏi ra mới biết nơi đây vốn là rừng già, bạn cho nước ngoài thuê khai thác gỗ, họ dùng hóa chất đốt trụi để lấy gỗ quý. Một lần về Việt Nam, gặp ông chủ doanh nghiệp dệt Hữu Đạt ở Nam Định đang đi tìm nơi trồng bông lấy nguyên liệu dệt vải, anh Đức chợt nhớ khoảng rừng trơ trụi bên nước bạn. Anh ngỏ lời cùng ông chủ Hữu Đạt rồi quay lại Xiêng Khoảng, đích thân gặp ông tỉnh trưởng trình bày. Ý tưởng lớn gặp nhau, đến nay, một dự án trồng bông lớn do Công ty Hữu Đạt thực hiện đang được triển khai, hứa hẹn mang lại màu xanh, việc làm và cuộc sống mới, hồi sinh khu rừng “chết”.

Trên công trường đường tuần tra biên giới ở Kon Tum, Công ty Lũng Lô cũng được lãnh đạo và nhân dân tỉnh Át-ta-pư giúp đỡ, cho mở con đường công vụ dài 15km, phá thế độc đạo để vận chuyển vật tư vào tuyến.

Trên địa bàn Quân khu 4, Công ty Hợp tác Kinh tế (COECCO) và trên địa bàn Quân khu 5 có Công ty Nam Lào, từ chỗ là những đơn vị hợp tác kinh tế với nước bạn những năm bao cấp, nay đã phát triển đa ngành, tham gia làm đường tuần tra biên giới. Bước chân của những người lính làm kinh tế trên đường biên giờ đây không còn chỉ đơn thuần là một đội quân kinh tế mà càng tỏa sáng vai trò đội quân công tác, đội quân tiếp tục bắc thêm những nhịp cầu hữu nghị.

 

Nguyễn Minh – Đức Toàn


(Theo website Phùng Quang Thanh)

Con đường “Nam quốc sơn hà” (Kỳ 6): Con đường đi giữa lòng dân


Ở đâu có bộ đội, ở đó có công tác dân vận. Con đường tuần tra biên giới mở ra không chỉ làm cho thế đứng biên cương thêm vững vàng mà dấu chân người lính mở đường đi tới đâu, quan hệ quân dân càng thêm gắn bó. Có một con đường đi giữa lòng dân…

Làm đường nhanh nhờ dân vận khéo

Ngày đặt chân lên cung đường Mường Típ từ mốc L7 đến mốc L10, thuộc huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, kỹ sư Nguyễn Xuân Hưng, Giám đốc xí nghiệp thi công cơ giới, Công ty 789 thật sự ngao ngán bởi có quá nhiều khó khăn. Đây là địa bàn biên giới thuộc một trong những huyện nghèo nhất của đất nước, nằm trên đỉnh Pu Vai Lai Leng, cao 2.711m, địa hình dốc đứng, đường độc đạo, xa trung tâm hàng trăm ki-lô-mét, vận chuyện vật liệu cực kỳ chật vật. Họ vượt nắng thắng mưa, mở những đoạn đường đầu tiên, cho đến một ngày nọ…

Gia đình anh A Lỗi ở Dục Nông (Kon Tum) đã cho bộ đội mượn đất làm doanh trại mở đường tuần tra biên giới.

Gia đình anh A Lỗi ở Dục Nông (Kon Tum) đã cho bộ đội mượn đất làm doanh trại mở đường tuần tra biên giới.

Vào bản Ải Khe, con đường vấp sự cố đầu tiên khi đi qua mấy cái rào gỗ cạnh luống rau của dân, lập tức bà con người Mông kéo ra đòi… đền bù. Anh em cầu thị, xin dân cho bồi thường với mức… 2 triệu đồng. Con đường lại vươn dài tiếp.

Một ngày nọ, con đường vướng phải một khu chuồng trại chăn nuôi bò. Anh em báo về, chủ trang trại đòi bồi thường… 40 triệu đồng! Choáng thật! Lãnh đạo xí nghiệp cùng anh em khăn gói quả mướp lên gặp dân, tới cả nhà trưởng bản “dân vận” mà vẫn không thành. Đồng bào Mông đã nói là làm, để làm thay đổi suy nghĩ của họ còn khó hơn vần đá tảng. Bàn bạc mãi, anh em mới chợt nhớ ra, ở lâu nhất và được đồng bào quý nhất nơi đây, không ai hơn bộ đội biên phòng. Vậy thì trước hết phải “quân vận”, nhờ anh em biên phòng nói với bà con. Đồn biên phòng thấy bộ đội 789 cầu thị, nhận lời giúp. Quả nhiên, qua bộ đội biên phòng phân tích điều hơn lẽ thiệt, giới thiệu về ý nghĩa con đường, về tấm lòng bộ đội 789, ông trưởng bản “gật đầu”, rồi ông nói với chủ trại bò. Giữa lúc ông chủ trại bò còn lưỡng lự thì câu chuyện dở dang vì cô con gái rượu mới 9 tuổi của ông bất ngờ lên cơn sốt. Trưởng bản đã mời thầy mo cúng 3 ngày mà bệnh không thuyên giảm. Hưng vào nhà ông, trong túi xách anh mang theo có rất nhiều thuốc dự phòng, nhưng toàn thuốc cho người lớn. Đường ra trạm xá thì rất xa. Đắn đo suy tính, Hưng lóe lên ý tưởng gọi cho cô bạn là bác sĩ ở Hà Nội. Bạn bày cho cách bẻ đôi từng viên thuốc cho cô bé uống. Đứa bé khỏi bệnh trong niềm vui mừng khôn tả của ông chủ. Bữa rượu nghĩa tình khiến mọi người hiểu nhau hơn. Người dân không đòi bồi thường mà “miễn phí”. Con đường lại tiếp tục vươn xa.

Lại một bữa khác, con đường theo thiết kế đi xuyên qua một nghĩa địa của đồng bào dân tộc Mông. Gọi là nghĩa địa, nhưng đồng bào sau khi chôn cất thường không tu tạo, chăm sóc mồ mả như người Kinh, vì vậy đơn vị khảo sát, thiết kế không thể phát hiện ra nghĩa địa. Đến khi thi công, sự việc mới phát lộ, đồng bào ra ngăn cản. Thuyết phục, vận động di dời mộ thì đồng bào không đồng ý. Hưng xin phép điều chỉnh, nắn tuyến con đường để tránh nghĩa địa của dân.

Vừa làm đường vừa giúp dân

Đường tuần tra biên giới khu vực bản Nà Khoa, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên đi qua một địa bàn khá “nóng”. Nơi đây là một bản đồng bào Mông di cư từ phía Nam về định cư, tiềm ẩn tội phạm ma túy và hiện tượng truyền đạo trái phép, từng làm đau đầu các chiến sĩ biên phòng. Địa hình hiểm trở, bị chia cắt bởi nhiều khe sâu, núi cao, hệ thống đường đến đồn biên phòng và từ đồn biên phòng ra biên giới hầu như chưa được đầu tư, đi lại chủ yếu bằng các lối mòn, đời sống của đồng bào rất khó khăn, sản xuất hàng hóa chưa phát triển, nhiều hủ tục, tập quán lạc hậu. Khi bộ đội của Công ty 492 (Binh đoàn 12) và Công ty Trường Thành (Bộ đội Biên phòng) lên mở đường đã vấp phải một “rào cản” hết sức nguy hiểm. Xuất hiện những kẻ xấu đứng phía sau kích động đồng bào “cấm vận” bộ đội, không bán thực phẩm, không cho mở đường, đòi hỏi bồi thường vô lý với giá tiền cao “cắt cổ”. Bọn xấu còn xuyên tạc bộ đội mở đường để chiếm đất của dân. Có 6 hộ dân nhà nằm ngoài lộ giới đường nhưng vẫn đòi bồi thường với lý do… cần được di dời đi chỗ khác!

Con đường tới bản Nà Khoa, Mường Nhé (Điện Biên) giúp đồng bào dân tộc Mông tiện lợi trong đi lại, sản xuất.

Con đường tới bản Nà Khoa, Mường Nhé (Điện Biên) giúp đồng bào dân tộc Mông tiện lợi trong đi lại, sản xuất.

Trước những điều trớ trêu ấy, Trung tá Hà Đức Thuận, Giám đốc xí nghiệp Xây lắp 1, Công ty Trường Thành bực lắm. Anh bàn với anh em đồn biên phòng, đẩy mạnh dân vận, cô lập kẻ xấu, gần gũi giúp đỡ đồng bào. Bà con nghèo đến mức thường đến lán bộ đội xem nhờ ti-vi. Thế là anh Thuận bàn với anh em, mua ti-vi, loa đài tặng các thôn bản. Anh cũng cho in sao các đĩa DVD về con đường tuần tra biên giới, tặng cho đồng bào xem, giúp đồng bào hiểu thêm ý nghĩa con đường. Anh cũng cho tuyển nhiều lao động phổ thông là các thanh niên địa phương, từ Mường Chà, Mường Ẳng lên tham gia làm đường. Họ trở thành cầu nối giữa bộ đội và đồng bào thêm gần gũi hơn. Riêng chuyện bồi thường, giải phóng mặt bằng, trong khi chờ địa phương giải quyết, kẻ xấu tiếp tục kích động, Thuận đã bàn với lãnh đạo Công ty, vay tiền ngân hàng, ứng trước hơn một tỷ đồng trả trước cho dân. Đồng bào dần hiểu ra, ủng hộ bộ đội làm đường. Sáu hộ đòi di dời giờ đây lại tình nguyện xin ở lại, không cần bồi thường vì thấy con đường…quá đẹp! Chưa hết, chỉ riêng việc anh Thuận đề xuất các nhà thầu mua xi măng của Nhà máy xi măng Điện Biên phục vụ làm đường thay cho dùng xi măng của các hãng khác đã giúp trên toàn tuyến đường ở Điện Biên tiêu thụ hơn 60.000 tấn xi măng, một nguồn “đầu ra” không nhỏ, thúc đẩy cơ hội việc làm và thu nhập cho địa phương.

Khi Trung tá Nguyễn Văn Thăng, Phó giám đốc xí nghiệp TK21 của Công ty 319 tới xã Xuân Nha, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, bà con bản Cột Mốc đã kéo đến hỏi thăm, ngồi nói chuyện râm ran trong căn nhà gỗ bản doanh của xí nghiệp. Chủ tịch xã Đinh Văn Quán cũng có mặt thăm dò tiến độ làm đường của đơn vị. Mọi thứ thay đổi quá nhanh so với hai năm trước, khi anh Thăng cùng đồng đội đến nơi này, bà con dân bản 100% là người Mông nhìn các anh lạ lẫm, phần đông không biết tiếng Kinh, chẳng ai trò chuyện. Phụ nữ thấy các anh thường lánh mặt. Phải cùng với bộ đội biên phòng, chính quyền xã tìm đến đồng bào, tặng quà, tặng thuốc men, tặng cả rau tăng gia để hướng dẫn họ biết trồng rau, quan hệ quân dân mới dần xích lại. Biết dân bản còn chưa có nhà văn hóa, anh Thăng cùng đồng đội bàn nhau, xây dựng doanh trại xí nghiệp là một ngôi nhà gỗ kiên cố, trị giá hơn một trăm triệu đồng, khi nào làm xong con đường, sẽ tặng lại bà con làm nhà văn hóa.

Ở Dục Nông (Kon Tum), khi bộ đội Công ty ACC tới làm đường tuần tra biên giới, tự nhiên số gia đình dựng nhà mới tăng lên gấp bội. Anh A Ban, một người nông dân thuần phác thật thà kể với chúng tôi rằng: Bình thường, để dựng được ngôi nhà, trai tráng cả làng lấp đất, làm nền có khi mất cả năm trời. Nay bộ đội có máy ủi, máy xúc, chỉ cần “cái máy nó chạy một lúc” bằng cả bản làm cả năm. Cũng có khi, máy móc trên đường về, theo lời đề nghị của trưởng bản, anh em đào giúp một chút, đã giúp bản có thêm rãnh nước. Chỉ riêng trong năm 2009, anh em đã đào được hơn 10 cái giếng giúp dân ở thôn Đác Xây. Sự xuất hiện của những máy móc, thiết bị xây dựng hiện đại quả là cơ hội quý giúp đỡ đồng bào rất nhiều việc. Chính vì thế nên theo khi con đường đi qua các nương rẫy có sẵn của gia đình các anh A Soong, A Lỗi, A Ban, họ đều vô tư giúp bộ đội. Riêng gia đình anh A Lỗi, dù rất nghèo nhưng vẫn cho bộ đội mượn đất bắc cầu đi qua vườn, lại cho mượn ruộng làm kho để vật liệu. Anh theo đạo Tin lành, không biết chữ, nói chuyện rất hồn nhiên: “Bao giờ tỉnh làm xong cái đền bù thì làm thôi, mình thấy giúp bộ đội làm đường nhanh hơn thì cái chân đi sướng hơn”.

Đất lạ hóa quê hương

Một bữa, Lê Anh Tuấn, 33 tuổi, cán bộ Công ty Đường Việt bị sốt ác tính do côn trùng đốt khi đang đi khảo sát. Tuấn lên cơn, mặt tái nhợt, mắt nhắm nghiền, ngất đi, mạch càng lúc càng yếu. Anh em cuống cuồng khiêng đi tìm trạm xá, dọc đường gặp một ông lão người dân tộc thiểu số. Ông mở chăn nhìn Tuấn rồi hốt hoảng nói:

- Nguy lắm rồi, không chữa nhanh là nó chết đó!

- Chữa cách nào già ơi! – anh em hốt hoảng.

- Chỉ có một cái thôi…

Cái mà ông già nói anh em nghe xong đã… suýt ngất. Theo kinh nghiệm của ông già, phải tìm một cô gái chưa chồng, cho người bệnh ngậm nhũ hoa của cô. Trời! Giữa rừng này tìm một phụ nữ đã khó, nói chi tìm được cô gái chưa chồng. Lại còn chuyện nhờ được cô ta cho… bú, chắc khó hơn lên trời! Thế nhưng ông già quả quyết:

- Đi theo tao!

Ông đưa anh em cắt rừng, tới một trường tiểu học gần đó. May sao ở đây có một cô giáo chưa chồng. Anh em ai nấy mặt đỏ như gà chọi, chẳng biết trình bày ra sao. May nhờ cụ già, cô gái thương tình đồng ý. Quả nhiên sau khi được… “ngậm”, cậu Tuấn dần dần hồi tỉnh, mạch khá lên. Giờ đây, Tuấn đã vượt qua cơn nguy biến và lại đi khắp các nẻo rừng nhưng với anh, sự dũng cảm của cô giáo nọ là ơn nghĩa anh không thể nào quên. Tây Nguyên đã trở thành quê hương thứ hai của cuộc đời anh.

Chung suy nghĩ như Tuấn, Thượng tá Trần Quốc Chính, Phó chỉ huy trưởng đơn vị H93, tạm biệt vợ con ở Cam Ranh, đi biền biệt cùng đồng đội lăn lộn trên nẻo rừng Bù Gia Mập suốt từ năm 2004 đến nay đã coi nơi đây gần như một miền quê mới. Riêng đồng đội của anh, đã có tới 5 quân nhân trẻ lấy vợ người địa phương. Bình yên đã trở lại trên vùng đất “nóng” năm nào và tình yêu cùng nhiệm vụ mở đường đã biến đất lạ hóa quê hương của họ…

 

NGUYÊN MINH – ĐỨC TOÀN


(Theo website Phùng Quang Thanh)

Con đường “Nam quốc sơn hà” kỳ 5: Dấu chân các vị tướng


Các vị tướng, những “kiến trúc sư”, “tổng công trình sư” với tầm nhìn chiến lược đã nghĩ gì, làm gì trên con đường này? Những câu chuyện dưới đây phần nào giúp bạn đọc thấy được sự chỉ đạo vĩ mô nhưng cũng đầy sâu sát trách nhiệm của các tướng lĩnh quân đội trước con đường chiến lược, cũng là trách nhiệm lớn lao vì sự trường tồn và phát triển của đất nước…

Khi Đại tướng đi “nhờ xe”

Tháng 3 năm 2008, những cung đường tuần tra biên giới mới mở ở tỉnh Sơn La vấp phải rất nhiều khó khăn, vướng mắc mà sau này Thiếu tướng Hoàng Kiền đã viết thành thơ: “Đường biên giới tỉnh Sơn La/ Triển khai xây dựng thật là gian nan/ Mênh mông rừng núi bạt ngàn/ Vùng biên trùng điệp địa bàn xa xôi/ Khởi công năm dự án rồi/ Hai trăm cây số bao nơi đợi chờ/ Người, xe ngồi, đứng ngẩn ngơ/ Đền bù giải phóng bao giờ mới xong?”. Nơi đây, bản làng, nương rẫy lại bám theo sườn núi nên ở Chiềng Khương, Sông Mã, khi bộ đội mở đường, đất trượt theo ta-luy rơi vào mương, lập tức đồng bào ra lập rào chắn không cho thi công. Ở xã Xuân Nha, huyện Mộc Châu, đường đi vào nơi tỉnh lập quy hoạch khu bảo tồn thiên nhiên nhưng huyện lại cấp sổ đỏ cho dân. Vướng mắc cứ thế chồng chéo. Ban quản lý dự án 47, Bộ Tổng tham mưu đã nhiều lần phối hợp với địa phương mà chưa xử lý xong, đành báo cáo Bộ Quốc phòng can thiệp và… chờ đợi. Một ngày đầu tháng 3, chuông điện thoại trên bàn Thiếu tướng Hoàng Kiền bỗng réo vang. Đầu dây, một cán bộ Văn phòng Bộ Quốc phòng cho hay, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sẽ trực tiếp lên kiểm tra tuyến đường và làm việc với địa phương để tháo gỡ những vướng mắc!

Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tới thăm và kiểm tra đường tuần tra biên giới tại Sơn La năm 2008.

Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tới thăm và kiểm tra đường tuần tra biên giới tại Sơn La năm 2008.

Tin bất ngờ làm Thiếu tướng Hoàng Kiền xúc động. Đây quả thực là một sự quan tâm lớn của lãnh đạo Bộ Quốc phòng, đúng vào thời điểm tuyến đường đang gặp nhiều khó khăn bộn bề nhất.

Một ngày giữa tháng 3-2008, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã có mặt tại Sơn La. Trước khi có cuộc họp với lãnh đạo tỉnh, Đại tướng yêu cầu được đi thăm và kiểm tra một số gói thầu đường tuần tra biên giới. Anh em tham mưu muốn đề xuất để Bộ trưởng tới thăm một số gói thầu làm tốt nhất nhưng thật bất ngờ, Đại tướng chỉ đạo rõ ràng: Cho đi thăm tuyến nào khó khăn nhất, phức tạp nhất. Chấp hành mệnh lệnh, nơi được chọn để Đại tướng tới kiểm tra là gói thầu ở bản Pu Hao, thuộc xã Mường Lạc, huyện Sốp Cộp do Công ty Tây Bắc thi công, nằm sát biên giới nước bạn Lào. Những chiếc xe dã chiến lắc lư bò qua đoạn đường vắt vẻo trên đỉnh núi, một bên là vực sâu thăm thẳm. Rất nhiều đoạn cua tay áo gấp khúc, nếu xe quay ngang hoặc trượt bánh, không biết điều gì sẽ xảy ra. Ngồi trên xe, Đại tướng chăm chú quan sát, tranh thủ hỏi về tình hình con đường. Nghe báo cáo trên đoạn đường này cũng là nơi có chiến sĩ đầu tiên hy sinh, là lái xe của công ty Tây Bắc (Quân khu 2), Đại tướng lặng đi như nén một nỗi niềm trăn trở…

Kết thúc cuộc kiểm tra, đồng chí lái xe của Bộ trưởng lập tức gặp lãnh đạo Ban quản lý dự án 47, tỏ ý không hài lòng:

- Tại sao tuyến đường nguy hiểm như thế này mà các đồng chí lại chọn để Bộ trưởng đi kiểm tra. Sao không chọn tuyến dễ đi hơn?

Mắt thấy tai nghe tuyến đường nên khi làm việc với lãnh đạo tỉnh Sơn La, những kiến nghị của Bộ trưởng đã giúp bí thư, chủ tịch tỉnh hiểu sâu hơn nhiều điều, khai thông nhiều bế tắc. Không dừng lại ở chỗ xử lý vướng mắc mặt bằng, đồng chí Thào Xuân Sùng, Bí thư tỉnh ủy Sơn La còn giãi bày với Bộ trưởng những khó khăn trong phát triển giao thông của tỉnh. Như tuyến đường ở xã Xuân Nha, cho dù có dự án nước ngoài rót vốn mấy năm nay nhưng vốn “nhỏ giọt” quá, vẫn bế tắc. Đại tướng lắng nghe, rồi đưa ra quyết định: Bổ sung tuyến Xuân Nha vào dự án đường tuần tra biên giới. Cuộc họp kết thúc trong tiếng vỗ tay rộn rã và những nụ cười, cái bắt tay ấm áp tình quân dân. Sau này, những khó khăn trên tuyến Sơn La đã từng bước được tháo gỡ…

Đoàn xe bon bon ngược Quốc lộ 6 về Hà Nội. Xe vừa ra đầu thành phố, bỗng chiếc xe chở Bộ trưởng phanh “két”. Đại tướng bước xuống xe, vẫy tay yêu cầu xe của Thiếu tướng Hoàng Kiền dừng lại, thân mật bảo:

- Cho tôi đi “nhờ” xe các đồng chí được chứ?

Nói rồi, ông nhanh nhẹn bước lên, lệnh cho đoàn xe tiếp tục đi. Ngồi trên xe, Đại tướng nói: “Họp hành, hội nghị nhiều thì cũng chỉ nghe các anh báo cáo được 15-20 phút là cùng. Mà đây lại là con đường chiến lược, quan trọng lắm. Từ giờ về đến Hà Nội, còn mấy tiếng đồng hồ, tôi muốn tranh thủ nghe báo cáo kỹ nhất, thật nhất, cả những gì làm được và chưa làm được…”.

Được lời như cởi tấm lòng, suốt mấy tiếng đồng hồ, Thiếu tướng Hoàng Kiền đã có dịp báo cáo với Bộ trưởng về con đường. Bộ trưởng lắng nghe và đặt ra rất nhiều câu hỏi “tại sao”. Có lần ông gọi riêng Thiếu tướng Hoàng Kiền trao đổi, căn dặn phải điều hành cho thật tốt, vì con đường là danh dự, là uy tín của quân đội trước Chính phủ, trước nhân dân. Sau này, Đại tướng còn trực tiếp đến thăm, kiểm tra tuyến đường đầu tiên hoàn thành tại ngã ba biên giới ở Kon Tum và đã có rất nhiều quyết sách, chủ trương mới được Bộ trưởng ban hành, giúp con đường đẩy nhanh tiến độ. Với các cán bộ Ban quản lý dự án 47, chuyến xe “đi nhờ” của Đại tướng thực sự là một kỷ niệm sâu sắc về sự quan tâm, tác phong sâu sát của người lãnh đạo cao nhất của quân đội ta.

Những người “định hướng”

Năm 2004, Bộ Quốc phòng đã triển khai xây dựng đường tuần tra biên giới ở khu vực đi qua Vườn quốc gia Bù Gia Mập, có nhiều gỗ quý nên đồng chí lãnh đạo vườn quốc gia chưa đồng thuận. Đồng chí này đưa ra rất nhiều văn bản pháp luật về bảo vệ rừng, về thu hồi đất, bồi thường rừng… Đoàn cán bộ của Bộ Quốc phòng do Thượng tướng Phan Trung Kiên, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng khi đó dẫn đầu làm việc mất nhiều thời gian mà vẫn chưa thuyết phục được đồng chí cán bộ nọ. Thuyết phục, phân tích hồi lâu chưa kết quả, Thượng tướng Phan Trung Kiên đứng lên, đối thoại thẳng thắn:

- Quân đội làm đường tuần tra cũng không muốn phá rừng. Yêu cầu nhiệm vụ đang cấp bách, không có luật nào cao hơn… “luật bảo vệ Tổ quốc”. Nếu đồng chí không đồng ý thì đồng chí “ký vào đây” một chữ để chúng tôi về báo cáo Bộ Quốc phòng, báo cáo Thủ tướng Chính phủ!

Trung tướng Phạm Hồng Lợi (ngồi ngoài cùng bên phải) chỉ huy đối chiếu thiết kế đường tuần tra biên giới với thực địa trên đỉnh Phu Vai Lai Leng.

Trung tướng Phạm Hồng Lợi (ngồi ngoài cùng bên phải) chỉ huy đối chiếu thiết kế đường tuần tra biên giới với thực địa trên đỉnh Phu Vai Lai Leng.

Trước lời phát biểu kiên quyết của Thượng tướng Phan Trung Kiên, đồng chí lãnh đạo vườn quốc gia đã hiểu ra. Từ chỗ “vướng nhiều luật”, Bình Phước trở thành địa phương có cơ chế, thủ tục thông thoáng, giúp triển khai các dự án nhanh chóng và hiệu quả.

Trong số ảnh tư liệu mà Ban Quản lý dự án 47 lưu giữ được, còn có hình ảnh xúc động về cố Thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên, Tổng Tham mưu trưởng trong một lần kiểm tra, đã tỷ mỉ đo đếm, dùng tay bốc xi măng kiểm tra để nhắc nhở anh em bảo đảm độ bền vững của con đường. Sự có mặt sâu sát của Thượng tướng Nguyễn Khắc Nghiên đã giúp đưa ra lời giải kịp thời một bài toán quan trọng: Xác lập tiêu chuẩn đường bê tông xi măng cho con đường sao cho đúng định hướng của Thủ tướng “bền, tốt, rẻ” trong khi chính các bộ ngành chức năng còn chưa đề ra được tiêu chuẩn quốc gia.

Còn Trung tướng Phạm Hồng Lợi, nguyên Phó tổng Tham mưu trưởng, vào bộ đội từ tuổi thiếu niên, từng qua nhiều chiến trường; 37 tuổi đã là cán bộ sư đoàn, 9 năm làm Phó tổng Tham mưu trưởng, phụ trách công tác tác chiến, ông thuộc biên giới như lòng bàn tay. Tuy nhiên, ông cũng lại là người cực kỳ “hiện đại”, đi đâu cũng luôn kè kè chiếc máy định vị GPS. Ông thận trọng từng ly, từng mét để làm đường sao cho đúng biên giới, vừa không lạm vào đất bạn, dù chỉ một ly, lại vừa giữ đúng biên cương thiêng liêng của Tổ quốc. Chiếc máy ảnh, máy quay phim cũng là người bạn thường trực bên ông để ghi lại những tư liệu xác đáng cho việc hoạch định con đường. Đúng như bài thơ Thiếu tướng Hoàng Kiền viết về ông: “Bản đồ tác chiến đường biên/ Vệ tinh định vị anh liền chỉnh ngay/ Kiểm tra chỉ đạo tháng ngày/ Khó khăn, vướng mắc giải ngay kịp thời/ Đường tuần tra đến mọi nơi/ Bước chân anh Lợi sáng ngời rừng xanh”.

Thiếu tướng Phạm Quang Vinh, Cục trưởng Cục Kế hoạch và Đầu tư (Bộ Quốc phòng) cũng từng cùng Thiếu tướng Hoàng Kiền đi kiểm tra các đoạn đường đang thi công ở Tây Nguyên và Tây Bắc. Trong đó có lần ở Sơn La, hai vị tướng đã phải ngồi xe ôm của mấy thanh niên dân tộc thiểu số, “nhảy chồm chồm” đi vào công trường thuộc huyện Sông Mã (Sơn La) trước sự ngạc nhiên của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ở địa phương.

Giờ đây, Trung tướng Nguyễn Trung Thu, Phó tổng Tham mưu trưởng, người kế nhiệm Trung tướng Phạm Hồng Lợi cũng lại là người từng kinh qua chiến đấu, nhiều năm lăn lộn với chiến trường khu 5 và cũng là con người của công việc, luôn sâu sát. Có lần đi kiểm tra ở Tây Nguyên, ông yêu cầu đoàn cho đi từ 4 giờ sáng, một ngày hành trình kéo dài tới 700 cây số để kịp cuộc họp hôm sau. Là người lính đi đánh giặc từ tuổi 12, lại nhiều năm làm Tư lệnh Quân khu 5, ông rất hiểu Trường Sơn. Mỗi lần đi kiểm tra, ông cố lội bộ vào những nơi gian khổ nhất, động viên anh em cố gắng. Có lần, ông dừng rất lâu thắp hương trên những ngôi mộ gió của anh em mở đường hy sinh trên tuyến Kon Tum, mắt nhòe lệ. Có lẽ, ông đồng cảm với nỗi đau mất mát này bởi trong lòng ông cho đến bây giờ vẫn còn có một nỗi đau giày xé mấy chục năm qua. Người cha thân yêu của ông đã anh dũng hy sinh trên chiến trường Quảng Nam suốt mấy chục năm trời mà vẫn chưa biết yên nghỉ nơi nào…

PV


(Theo website Phùng Quang Thanh)

Con đường “Nam quốc sơn hà” kỳ 4: Những hy sinh thầm lặng


“Đã có những hy sinh, khó nói hết bằng lời”: Không chỉ là mưa rừng, gió núi, rừng thiêng, nước độc, bệnh tật, hiểm nguy… Còn có cả nước mắt và máu đổ xuống cho con đường chiến lược của Tổ quốc ngày một vươn dài…

Những người ngã xuống

Con đường gần Đồn biên phòng 711 Suối Cát, tỉnh Gia Lai bây giờ, có một cái am thờ bằng gỗ rừng nhỏ, chênh vênh bên vực sâu hun hút. Giữa rừng già, không mua được nhang nên bộ đội thường thắp… thuốc lá, đặt lương khô lên đó. Nơi dốc đá này, hai đồng đội của họ, hai người lính trẻ măng, đều chưa lập gia đình: Thiếu úy Bùi Tiến Dũng, sinh năm 1983, quê ở Thanh Hóa và công nhân viên Hồ Việt Đức, sinh năm 1982, quê Quảng Bình đã ngã xuống, trước kỳ nghỉ lễ 30-4-2010. Cả hai là đều là thợ kỹ thuật nổ mìn của một đơn vị Công binh Quân khu 5. Đại úy Nguyễn Văn Điệp, Chỉ huy đơn vị nhớ lại: “Đoạn đường chúng tôi làm dính toàn đá tảng, có 9km đường thì 3km đá, đi qua cả một đồi đá. Giải pháp duy nhất là phải khoan đá nổ mìn mở đường. Dũng và Đức là hai thợ giỏi, thường xung phong nhận nhiệm vụ khó khăn này”.

Một đoạn đường tuần tra biên giới ở Sơn La chênh vênh bên vực sâu.

Một đoạn đường tuần tra biên giới ở Sơn La chênh vênh bên vực sâu.

Hôm ấy đã xế trưa, chừng 12 giờ kém mà họ vẫn chưa chịu về, cố nổ phá thêm một đoạn đường. Mìn đã đặt, cờ cảnh giới đã cắm, mọi người vào vị trí an toàn rồi điểm hỏa thì sự cố xảy ra. Mìn không nổ.

- Để tụi tui lên kiểm tra xem sao! – tiếng Đức hét to với 2 người cảnh giới.

Cả hai nhanh chóng chạy lên thì bỗng “ầm”, một tiếng nổ vang lên. Anh em chạy lại thì thấy Dũng nằm đó, người đen sạm khói thuốc. Anh đã hy sinh tại chỗ. Tìm mãi mới thấy Đức bị văng ra cách 15m, vẫn còn thoi thóp thở. Anh Điệp nghe điện rụng rời, vội cho chiếc xe tốt nhất lao ra, đưa Đức đi cấp cứu. Nhưng thật đau lòng, đường rừng gập ghềnh, ra tới Bệnh viện 705 Sê San có 70km mà phải tới 2 giờ chiều mới chạy tới nơi. Bác sĩ lắc đầu: “Không kịp nữa rồi”.

Tròn một năm trôi qua, anh em mỗi ngày đi làm vẫn châm thuốc, đặt lương khô, mì ăn liền – những món ăn thường nhật của thợ mở đường lên am thờ. Đồi đá đã thông, nhưng đồng đội vẫn day dứt chờ ngày Dũng và Đức được công nhận là liệt sĩ. Thủ tục sao mà quá chậm?

Mùa hè năm 2010, tạm biệt người vợ trẻ ở Thanh Chương, Nghệ An sau kỳ nghỉ phép, Thiếu úy Nguyễn Đình Việt, Trung đoàn Công binh hải quân 83 lên đường vào Đắc Nông dò mìn. Người vợ trẻ dặn dò: “Anh đi nhớ giữ gìn sức khỏe, kẻo rừng thiêng nước độc”. “Ôi dào! Đời lính công binh thì chỗ nào mà chả rừng thiêng nước độc, anh mình đồng da sắt rồi” – Việt cười trấn an vợ. Sáng ấy, anh và cậu Long đang dò ở một vạt rừng thì máy dò phát tín hiệu liên tục. Hai anh em bình tĩnh tìm cách xử lý. Gì chứ mìn, bom, đạn, Việt cũng đã chạm trán đủ loại rồi. Vậy mà, “ầm”, một tiếng nổ vang lên. Anh em chạy lại thì Việt và Long đã hy sinh vì một quả mìn nhảy nguy hiểm. Chỉ huy đơn vị về quê Việt, mới hay gia cảnh anh còn quá khó khăn. Vợ anh là giáo viên mầm non hợp đồng, thu nhập mỗi tháng chỉ hơn một triệu đồng. Hèn gì đồng lương thiếu uý quân nhân chuyên nghiệp ít ỏi, được bao nhiêu anh đều chuyển thẳng về quê. Chỉ huy đã đề nghị địa phương giúp người vợ trẻ sớm được vào biên chế. Nhưng cho đến bây giờ, địa phương vẫn trả lời: “Đợi! Khi nào anh ấy chính thức được công nhận là liệt sĩ, chúng tôi mới có căn cứ để giải quyết”…

5 năm trôi qua, đã có 8 liệt sĩ hy sinh khi mở đường tuần tra biên giới. Họ đều còn rất trẻ, tuổi đời trên dưới 30, phần lớn đã có vợ con và gia cảnh kinh tế đều còn rất khó khăn. Như hai liệt sĩ Nguyễn Văn Diện quê Quảng Bình và Nguyễn Chí Cường quê Thanh Hóa của Sư đoàn 470 (Binh đoàn 12), trước ngày hy sinh, tháng nào các anh cũng đăng ký làm thêm ca, thêm giờ, mong có thêm ít tiền gửi về cho vợ con đón Tết Tân Mão. Họ ngã xuống, để lại một khoảng trống quá lớn cho mái ấm nhỏ bé vốn đã chông chênh…

Trong một lần họp sơ kết về 5 năm xây dựng con đường, Thượng tướng Phan Trung Kiên, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã lưu ý khi con đường hoàn thành, cần xây bia tưởng niệm hoặc đền thờ, miếu thờ những người đã ngã xuống vì con đường phên giậu Tổ quốc!

“Khoảng trống” phía sau người mở đường

Anh, một kỹ sư dày dạn từng được mệnh danh là “sói biển” Trường Sa. Năm nào anh cũng nằm ngoài biển, đảo với anh em hàng tháng, chỉ huy thi công các công trình. Lên đến phó giám đốc công ty và cầu vai đã nhiều “sao, hạt”, anh vẫn cứ lên rừng, xuống biển, lọ mọ như một đội trưởng công trình. Lặng lẽ làm việc, lặng lẽ cống hiến nên ai cũng quý anh. Lúc đơn vị được giao mở đường tuần tra biên giới, cấp ủy họp bàn tính mãi, chưa tìm được ai tin cậy hơn, lại gọi cho anh từ Trường Sa lên Tây Nguyên. Anh về, mặt còn đen sạm nắng gió Trường Sa lại tiếp tục “tráng men” cái nắng Trường Sơn rừng rực, chẳng hề kêu ca nửa lời. Từ năm 2009, một mình anh chỉ huy 5 công trình, cả trên rừng và dưới biển. Tuyến đường anh chỉ huy đã hoàn thành sớm nhất, đẹp nhất, được chọn đón Đại tướng Phùng Quang Thanh và đoàn đại biểu Quốc hội vào tham quan. Có điều lạ, hai năm rồi anh không một lần đi tranh thủ. Không ai biết anh có một nỗi đau thầm kín trong lòng ngoài đồng chí giám đốc của anh. Lâu lâu mới gặp nhau, nhưng giám đốc đã tinh ý nhận ra trong mắt anh một nỗi buồn man mác. Hỏi hoài anh không chịu nói. Dọa, đưa ra chi bộ, anh mới chịu “khai”: Mấy năm rồi, biền biệt đi xa, người vợ trẻ ở nhà đã bỏ anh theo người khác, lại còn rắp tâm cùng người tình chiếm luôn cả ngôi nhà mà cả đời bộ đội chắt chiu anh vừa mới dựng lên được vài năm…

Đại tá Lê Quang Hiệp, Phó giám đốc Ban Quản lý dự án 47, người “nằm vùng” theo dõi toàn tuyến Tây Nguyên hơn 3 năm qua cho chúng tôi hay: Theo anh tìm hiểu, hiện trên toàn tuyến đường, đã có tới gần 10 trường hợp cán bộ, sĩ quan gia đình rạn vỡ. Có thể có nhiều lý do khác nhau, nhưng có một phần quan trọng vì điều kiện công tác quá vất vả, xa xôi cách trở, những người lính chưa làm tròn phận sự người chồng, người cha.

Dọc dài những cung đường đang mở, đã có những người vợ bộ đội khăn gói lên chốn rừng xanh núi đỏ thăm chồng. Như chuyện chị Phạm Thị Mai, vợ anh Trương Quang Thiều, Giám đốc Xí nghiệp thi công cơ giới của Công ty ACC lặn lội từ Hà Nội vào Dục Nông (Kon Tum) thăm chồng thật cảm động. Ba mươi sáu năm quân ngũ của anh, từ thuở binh nhì đến giờ, năm nào cũng ngủ núi nằm rừng hay lăn lộn ngoài hải đảo. Năm 2003, anh chuyển công tác từ Lữ đoàn 28 về Công ty ACC, cứ tưởng nhàn nhã hơn thì năm 2007, anh lại rời Hà Nội, vào Kon Tum làm đường tuần tra biên giới. Từ đó, anh đi biền biệt, hai năm chỉ về nhà đúng… hai lần. Lần đầu, anh nói tranh thủ mùa mưa, ngớt việc, về thăm chị được 20 ngày. Lần thứ hai, Tết 2009, về chiều 29 thì sáng mồng 5 anh đã gói ghém ba lô để lên đường cho kịp ra quân đầu năm. Nhiều lần anh báo tin ra Hà Nội họp, vậy mà họp xong lại đi ngay, cũng chẳng kịp về nhà. Số máy di động của anh, chị gọi hầu như lúc nào cũng “ò í e”. Chị ức lắm. Một thoáng nghi ngờ. Một thoáng hờn giận…

Tháng 7-2009, chị xin nghỉ phép, tranh thủ vào thăm anh. Xe tới thị trấn phố núi thì chiều đã muộn. Gọi là bến xe, nhưng chỉ lèo tèo vài căn nhà nhỏ, cũng chẳng có xe ôm. Chị hoảng hốt mở điện thoại thì sóng chỉ hiện lên một vạch yếu ớt. Gọi cho anh, lại “ò í e”. Theo hợp đồng, anh sẽ từ công trường ra thị trấn đón chị. Vậy mà bây giờ…

Đoàn cán bộ Ban Quản lý dự án 47 viếng 2 liệt sĩ thuộc Sư đoàn 470 hy sinh tại đoạn đường ở Chư Mo Ray huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum.

Đoàn cán bộ Ban Quản lý dự án 47 viếng 2 liệt sĩ thuộc Sư đoàn 470 hy sinh tại đoạn đường ở Chư Mo Ray huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum.

Phải đến nửa giờ sau mới có một sĩ quan trẻ đi chiếc xe Min-xcơ cũ kỹ, lấm lem bụi đỏ ba-zan chạy tới hớt hải: “Chị thông cảm, anh Thiều phải vào bản “dân vận”. Anh nhờ em ra đón chị!”. Dọc đường đi, cậu ấy cho hay, đơn vị đang làm đường thì vướng rẫy sắn của dân, anh Thiều phải vào gặp cả thôn, mời cả cha đạo Tin lành A Sun, rất có uy tín với dân đến để nhờ ông nói bà con giúp đỡ. Mọi việc xong rồi, nhưng bà con đang giữ anh ở lại ăn bữa tối, không thể từ chối.

Những ngày ở lại công trường, chị mới hiểu hết cuộc sống của các anh. Doanh trại đóng trong rừng sâu, cách chợ 50km, xa làng bản. Mùa mưa, phải điệp khúc cơm cá khô cả tháng trời. Anh em cán bộ, công nhân tuổi đời đều từ 25 đến ngoài 40, hầu hết đã có gia đình và 100% từ ngoài Bắc vào. Tính bình quân, mỗi năm anh em chỉ về nhà 20 ngày, còn lại bám công trường, chạy đua với thời gian. Mùa mưa, các anh cũng không nghỉ, lo đúc cống, làm đá, vận chuyển cát.

Đêm trong rừng sâu dài và buồn thăm thẳm, gợi cho con người ta rất nhiều suy nghĩ. Nghe tiếng đài “đọc truyện đêm khuya” từ những cái ra-đi-ô yếu điện cứ khọt khẹt, chập chờn câu được câu chăng, càng gợi buồn man mác. Có đêm, chị ngạc nhiên thấy 5-6 anh em không ngủ được, lại vùng dậy xách cuốc, xẻng, báo cáo anh Thiều xin được… đi làm thêm vì họ bảo: “Tiếc từng ngày nắng”. Có anh em tự nguyện làm tới 12-14 giờ mỗi ngày. Nghe những bước chân âm thầm trong đêm miền sơn cước, nước mắt chị lại ứa ra…

Xe đi trong chiều muộn Tây Nguyên chợt đến đoạn đường đầy ổ gà, ổ voi nhồi xóc, khiến tôi liên tưởng đến câu thơ của Phạm Tiến Duật: “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng/ Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Tôi hiểu, để con đường không ngừng vươn xa, không chỉ có mồ hôi đổ xuống mà còn có cả máu và nước mắt; không chỉ có những khúc quân hành hùng tráng mà còn có những nốt trầm day dứt từ những cảnh đời rất riêng của người lính mở đường…

PV


(Theo website Phùng Quang Thanh)

Con đường Nam quốc sơn hà Kỳ 3: Khi bộ đội thời bình hóa “Bộ đội Trường Sơn”


Trên đường tuần tra biên giới đang mở, bên cạnh mái đầu hoa râm của những người lính từng mở đường trong những năm chống Mỹ, hầu hết là những gương mặt trẻ. Họ đã lớn lên như lửa thử vàng, như “rõ mình” hơn ở nơi còn in bóng dáng một thời thế hệ cha anh “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”…

Những vùng đất “đệ nhất khổ”

Chỉ nhìn nước da đen sạm, bộ quân phục loang lổ vết muối mồ hôi trong cái nắng bỏng rát Tây Nguyên cũng đủ biết Thượng úy Đặng Văn Tuấn, 33 tuổi, quê Hải Phòng, chỉ huy trưởng công trường Công ty 145 (Binh đoàn 12) tại xã Đắc Long, huyện Đắc Glây (Kon Tum) phải lăn lộn với con đường này ra sao. Đã bốn năm rồi, anh và đồng đội mở núi để làm đường trên bình độ 1500m. Chỉ có 8km đường mà họ đã phải đào tới hơn 1,2 triệu mét khối đất đá trong 2 năm qua. Về thăm vợ vừa sinh đứa con đầu lòng được 3 ngày thì Tuấn khoác ba lô vào Kon Tum nhận nhiệm vụ. Anh đã có tới hai lần thoát chết trong gang tấc. Lần đầu đi nhận tuyến, cả nhóm như đàn khỉ leo lên vách đá cheo leo. “Rắc”, mỏm đá Tuấn bám trượt vỡ, anh lăn xuống, nghĩ mình chắc chết thì may bám vào được một dây leo. Lần khác, Tuấn ở lại trực Tết trên công trường năm 2009. Chiều mồng 2 Tết, xa nhà, buồn tê tái, anh em rủ nhau ra làm… khai xuân và cũng để vơi đi nỗi buồn. Tuấn cùng cậu Hiệp lên đỉnh dốc nổ mìn phá đá. Hai anh em đã đào một công sự ẩn nấp. “Ầm”, “ục, ục, ục”, đá từ trên đỉnh lũ lượt lăn xuống. “Chạy mau”, Tuấn chỉ vội hét lên rồi kéo Hiệp nhảy khỏi công sự. Cả hai nhanh trí nhìn thấy cái máy đào đỗ gần đó, vội vàng chui vào gầu máy lánh nạn. “Binh!” – tảng đá khổng lồ lao thẳng đè lên gầu máy đào rồi khựng lại. Suốt chiều hôm ấy, anh em đào bới mới đẩy được đá, cứu hai người ra. Nếu không có cái máy đào, có lẽ cả hai đã tan xương nát thịt.

Bữa cơm của công nhân trẻ tại Kon Tum trong những ngày mưa thiếu thực phẩm.

Bữa cơm của công nhân trẻ tại Kon Tum trong những ngày mưa thiếu thực phẩm.

28 tuổi, Trung úy Phạm Văn Tuấn là phó giám đốc xí nghiệp trẻ nhất của Công ty xây dựng Lũng Lô. Ngày 1-6-2009, Tuấn vừa nhận quyết định bổ nhiệm chức phó giám đốc thì nhận lệnh gói ghém ba lô đi làm đường tuần tra biên giới. Nhanh đến mức, anh cũng chưa biết con đường này nó hình thù ngang dọc ra sao. Và rồi, nơi anh tới là một xứ “khỉ ho cò gáy”: Gói thầu ở Đắc Sú (Kon Tum) sát biên giới nước bạn Cam-pu-chia. Đường vào tuyến không có, phải nhờ nước bạn, làm một con đường công vụ 15km để đưa vật liệu, xăng, dầu vào. Nhưng đường công vụ cũng dốc dựng đứng, mọi thứ lại phải tập kết ở đầu đường, rồi dùng xe ủi ra “cõng” từng thứ. Tiếng là phó giám đốc, nhưng Tuấn chủ yếu đi bộ, đi xe máy, họa hoằn đường tốt mới được ngồi xe u-oát mà có lẽ tuổi đời của nó còn lớn hơn cả tuổi Tuấn.

Chỉ có trên đường tuần tra biên giới

Ăn khổ, ở khổ, ngày nào cũng dãi dầu cái nắng như thiêu nên khi gặp dòng suối nước trong vắt, cánh lính trẻ Công ty Đồng Tân (Quân khu 7), đang thi công tuyến đường ở nam sông Ia Đrăng, huyện Chư Prông (Gia Lai) sướng “phát điên”. Chiều muộn, cậu Nam, kỹ sư cầu đường rủ cậu Hùng, cán bộ vật tư đi tắm, thì thầm bảo nhau: “Cuối tuần về thăm nàng, người ngợm phải “tươm tươm” tý. Lính thì phải “tráng”, lại giữa rừng già, chẳng một bóng phụ nữ, tội gì không… tắm tiên. Hai chàng nhảy xuống suối, hí hửng vẫy vùng.

“Cứu… cứu… em”… “Cứu em”!

Những tiếng kêu thảng thốt khiến anh Dũng, chỉ huy trưởng công trường cùng anh em đang ăn cơm quẳng bát đũa chạy ra. Trên bờ suối, hai chàng trần như nhộng, tay tóm chặt chỗ kín nhảy tưng tưng, mặt còn lộ vẻ kinh hoàng, máu tuôn ra đỏ lòm cả bàn tay.

- Chúng mày bị làm sao thế?

- Các anh ơi! Con gì nó đớp, đớp… ấy chúng em!

- Chết! Đớp mất rồi à, có còn tý nào không? Quân y đâu?

Quân y chạy ra, nhưng không tài nào cầm máu được. May mà “phần quan trọng” của hai chàng vẫn còn, chỉ bị thương. Anh em vội vàng đưa hai chàng lên cáng, phủ chăn, chạy bộ ra Trung tâm y tế gần đó. Bác sĩ cho biết, họ đã bị cá cóc, một loài cá rất độc ở vùng Ia Đrăng cắn vào hạ bộ. Loài cá này khi chết phình to như quả bóng, con vật nào ăn phải nó cũng chết luôn. Nó cắn ai thì cầm máu rất khó, nếu không có thuốc đặc trị có thể mất máu mà chết. Hùng và Nam thoát nạn. Từ ấy, anh em chấp nhận là những kẻ “kém tắm”, không ai dám bén mảng tới bờ suối nọ.

Cán bộ chiến sĩ đơn vị công binh H8 (Quân chủng Phòng không – Không quân) thường treo hàng loạt điện thoại di động trên dây phơi để đón “sóng rơi, sóng vãi”.

Cán bộ chiến sĩ đơn vị công binh H8 (Quân chủng Phòng không – Không quân) thường treo hàng loạt điện thoại di động trên dây phơi để đón “sóng rơi, sóng vãi”.

“Làm giám đốc không cần phải biết nấu cơm” – Trung tá Đỗ Quang Tiến, Giám đốc xí nghiệp 9 (Công ty 319) giờ đây đã phải ân hận vì quan niệm này. Năm 2008, anh vào chỉ huy làm đường bên bờ sông Sa Thầy, tỉnh Gia Lai, khí thế bừng bừng. Được một tháng, công việc đang ngon ăn thì 5, 10, 15, 20 rồi đến… 50 anh chàng to như trâu mộng cứ thế lăn đùng ra sốt rét. Quân y, thủ kho, rồi cấp dưỡng sốt rét hết. Chỉ còn mình Tiến phải vào bếp nấu ăn phục vụ mấy… “ông trẻ”. Khổ thân anh, từ bé đến giờ chưa một lần… cầm dao, phải vừa vào bếp, vừa ra giường hỏi mấy chú em đang rên hừ hừ cách chế biến. Sau đợt ấy, anh em gọi đùa gói thầu đồn 721 là gói thầu “bảy hai sốt”.

Đoàn cán bộ của Trung tâm Tư vấn khảo sát thiết kế công trình quốc phòng đi khảo sát tại Bù Gia Mập thì bất ngờ chạm trán một đàn voi rừng. Con voi đầu đàn rất hung dữ, xông thẳng tới đoàn. Trước tình huống nguy cấp ấy, Lê Văn Ngọc, chàng trai trẻ nhất đã nhanh trí ra hiệu cho mọi người ngồi xuống nấp. Riêng cậu thì dũng cảm chạy sang hướng khác gây sự chú ý của đàn voi, giúp mọi người an toàn.

Mùa mưa, đường vào tuyến nhão nhoẹt, khi vào công trường, bạn sẽ bắt gặp những chiếc xe máy nom vô cùng quái dị. Bánh xe được quấn thêm một lớp xích xe đạp chằng chịt để tăng độ bám. Bộ đội làm đường nhìn như chàng Đông-ki-sốt, đánh vật với chiếc xe như con ngựa bất kham vùng vẫy giữa dòng sông bùn. Đó cũng là phương tiện giao thông duy nhất tồn tại được trong mùa mưa.

Xác ô tô, xác xe máy cũng ngổn ngang dọc các cung đường. Mới có mấy năm ra quân, nhưng đã có tới hàng chục ô tô, xe máy thành sắt vụn vì gặp sự cố hoặc hỏng hóc do đường quá xấu.

Đến doanh trại của Lữ đoàn 28, Công ty 319, 789 và nhiều nơi khác, chúng tôi bắt gặp những chiếc điện thoại di động treo lơ lửng trên cành cây hay dây thép trước hiên nhà. Anh em đã dò tìm, nơi ấy, chỗ ấy có “sóng rơi, sóng vãi” của Viettel. May mắn hôm nào trời quang mây tạnh, sóng khỏe thì lõm bõm đàm thoại được dăm ba câu. Còn bình thường, điện thoại cứ treo đó, tin nhắn sẵn rồi, khi có sóng thì máy tự gửi đi!

Báo chí là thứ quý hiếm, anh em đọc đến nát nhàu. Thượng úy Nguyễn Xuân Hưng, Công ty 789 kể, có hôm vào thăm anh em, mua ít thịt chó cho anh em cải thiện. Thịt chó gói giấy báo, lấy thịt ra rồi, cánh lính trẻ phơi báo cho khô, rồi vuốt thẳng để đọc cho đỡ phí!

Chó là con vật được nuôi khá nhiều trên các tuyến đường. Chúng vừa đuổi rắn, vừa canh trộm. Anh em hầu như không bao giờ giết chó mình nuôi mà có khi còn được chúng… nuôi lại. Như con chó của kỹ sư Cường ở công ty 789 từng lập công khi phát hiện một con lợn rừng bị thương xuống suối uống nước. Anh em nhờ thế được… “một bữa no”!

Niềm tin, trăn trở và kỳ vọng

Đường tuần tra biên giới đã thực sự là nơi “lửa thử vàng”, có khá nhiều kỹ sư trẻ đã trở thành lãnh đạo các xí nghiệp mạnh. Cũng đã có rất nhiều cán bộ, kỹ sư, công nhân, chiến sĩ… được đứng trong hàng ngũ của Đảng từ công trường gian khổ này. Theo Đại tá Nguyễn Công Linh, Bí thư Đảng ủy, Phó giám đốc Ban quản lý Dự án 47, mỗi năm có tới hàng chục bạn trẻ được các chi bộ đội sản xuất, trung đội, đại đội công binh đề nghị kết nạp vào Đảng. Tuy nhiên, có một thực tế đáng suy nghĩ là làm thế nào để có nhiều bạn trẻ tài giỏi đến với con đường chiến lược này thì vẫn là một bài toán cần giải. Từ năm 2007 đến nay, Ban quản lý dự án 47 đã tuyển dụng hơn 20 kỹ sư trẻ vào làm việc. Nhiều người không sợ khó, sợ khổ nhưng do mức lương còn thấp, chỉ trên dưới 2 triệu đồng/tháng, rất chênh lệch so với làm việc ở thành phố và ở các đơn vị bên ngoài nên nhiều người đã xin chuyển công tác. Ở các đơn vị như đoàn 299, 239, 543, 83, 131, mỗi gói thầu đều có hàng chục chiến sĩ trẻ ngày đêm miệt mài làm đường. Là chiến sĩ nghĩa vụ nên họ không có lương, chỉ có vài trăm nghìn đồng phụ cấp mỗi tháng. Rất ít người trong số họ có cơ hội được đi học sĩ quan hay chuyển sang chế độ chuyên nghiệp.

Năm 2009, khi đến làm việc với Ban quản lý Dự án 47, Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cũng đã ghi nhận, cho phép thực hiện cơ chế tuyển dụng và đãi ngộ đặc thù để thu hút nhiều nhân tài tham gia xây dựng đường tuần tra biên giới. Tuy nhiên, theo Đại tá Nguyễn Công Linh, vì nhiều lý do, chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” đó vẫn chưa được cụ thể hóa để trở thành hiện thực.

Từ thực tế tìm hiểu hoạt động của bộ đội làm đường tuần tra biên giới ở miền Trung, Thiếu tướng Lê Phúc Nguyên, Tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân, cựu sinh viên Trường Đại học Tổng hợp Lô-mô-nô-xốp đã liên hệ cách thu hút giới trẻ tham gia xây dựng tuyến đường sắt Bai-kan – A-mua xuyên Xi-bê-ri mà ông và bạn bè từng trải qua. Công trường thanh niên cộng sản này được coi là điểm đến, là niềm tự hào của tuổi trẻ, thôi thúc hàng triệu sinh viên các trường đại học trên toàn Liên Xô tình nguyện tham gia. Đường tuần tra biên giới, con đường chiến lược nếu như gắn với việc phát động một phong trào tuổi trẻ rộng khắp, chắc chắn sẽ thu hút được rất nhiều bạn trẻ có tài, có đức, cống hiến và trưởng thành!

PV


(Theo website Phùng Quang Thanh)

Con đường “Nam quốc sơn hà” kỳ 2: Cuộc ra quân “nhớ đời”


Kỳ 2: Cuộc ra quân “nhớ đời”

Nhắc đến những ngày đầu gian khó mở đường, không thể không kể đến chuyến hành quân đầu tiên mà các giám đốc, kỹ sư trẻ đã gọi vui là “một giấc mơ kinh hoàng”. Đó là một ngày mùa thu năm 2007, họ từ thành phố, đồng bằng lần đầu tới Tây Nguyên để nhận tuyến đường mình sẽ làm. Trước đó, hầu hết anh em đều mới chỉ biết về Trường Sơn qua sách báo, phim ảnh…

Các kỹ sư trẻ và Đại tá Nguyễn Quốc Dũng, Giám đốc Công ty 789 (người ngồi hàng sau, cầm gậy) trong lần đi nhận tuyến năm 2007, tại Ia Lân (Kon Tum).

Các kỹ sư trẻ và Đại tá Nguyễn Quốc Dũng, Giám đốc Công ty 789 (người ngồi hàng sau, cầm gậy) trong lần đi nhận tuyến năm 2007, tại Ia Lân (Kon Tum).

Cuộc ra quân đầu tiên

Quyết định của Thủ tướng ban hành tháng 3-2007 nhưng phải đến gần nửa năm sau, các thủ tục pháp lý cho việc triển khai con đường vẫn chưa xong, dù đã qua tới 69 lần phê duyệt. Lúc này, Thiếu tướng Hoàng Kiền được điều động về làm Giám đốc Ban Quản lý dự án 47. Ông nóng ruột không chịu ngồi chờ thủ tục. Tiền trái phiếu là tiền vay của dân, chậm ngày nào, thiệt cho ngân sách ngày đó. Phải “vừa làm vừa báo cáo” thôi! Một ngày mùa thu năm 2007, ông quyết định: Triệu tập các nhà thầu vào ngay Tây Nguyên nhận tuyến. Trong tổng số 18 đơn vị công binh và 60 doanh nghiệp quân đội làm đường tuần tra biên giới, có tới hơn 40 đơn vị ra quân lần đầu trên các cánh rừng Tây Nguyên.

“Ra quân ư? Chúng tôi phấn chấn vì nhiệm vụ vẻ vang và các gói thầu đều có giá trị kinh tế cao, tạo công ăn việc làm lớn”- Anh Nguyễn Trọng Nguyện, Chỉ huy trưởng Công trường khu vực Dục Nông (Kon Tum) của Công ty Hương Giang (Binh đoàn Hương Giang) nhớ về những ngày đầu gian khó.

Không riêng gì Nguyện, hàng trăm giám đốc, phó giám đốc, chỉ huy trưởng công trường, kỹ sư… đều háo hức, kẻ lên xe con, người đáp máy bay vào ngay Tây Nguyên. Địa điểm tập kết của đoàn là Nhà khách Binh đoàn Tây Nguyên nằm giữa thành phố Plei-cu. Nguyện cùng anh Chung, giám đốc và vài kỹ sư khác nhảy lên chiếc Land Cuirser dã chiến, phóng một mạch từ Hà Nội vào Gia Lai. Nghe nói đến núi rừng, bản tính vốn lo xa, Nguyện xếp cả lên xe một thùng mì ăn liền và một cái bếp ga du lịch. Ai cũng bảo anh “hâm”, “tích cốc phòng cơ” không cần thiết giữa thời buổi kinh tế thị trường. Kệ! Nguyện cứ đưa hết lên xe. Chẳng dùng thì lại chở về!

Nhà khách Binh đoàn Tây Nguyên vui như mở hội. Xe con đỗ chật sân. Cà phê Trung Nguyên thơm ngào ngạt. Các giám đốc, kỹ sư tươi cười hớn hở. “Nghiêm! Chỉnh đốn trang phục…” – khẩu lệnh của vị tướng người xương xương, dáng đi thoăn thoắt khiến ai nấy giật mình. Một cuộc họp diễn ra với những tình huống trắc nghiệm:

- Anh em, có anh nào đã qua chiến tranh chống Mỹ, giơ tay?

Nhìn mãi cả hội trường, chỉ có một người, anh Trọng – Đoàn trưởng 728 (Binh đoàn 16), vốn là bộ đội đặc công đánh Mỹ.

- Anh em nào đã có kinh nghiệm mở đường giữa rừng đại ngàn Trường Sơn?

Lác đác vài cánh tay giơ lên cho biết đã tham gia làm đường Trường Sơn Đông, đường vành đai biên giới cũ.

- Nếu đi trong rừng gặp vắt thì phải làm gì?

Lắc đầu.

- Nếu gặp rắn lục, xử trí ra sao?

- Nếu đi trong rừng hết nước uống, thức ăn thì làm gì?

Lại lắc đầu và… lắc đầu.

Thế là mất cả một ngày trời để cuộc họp triển khai nhiệm vụ trở thành một cuộc tập huấn kinh nghiệm đi rừng. Thiếu tướng Hoàng Kiền trở thành giáo viên bất đắc dĩ, truyền thụ tỉ mỉ, hướng dẫn từ cách mắc tăng, võng đến cách xử trí khi gặp thú dữ, lạc rừng…

Bốn giờ sáng. Một hồi còi réo vang trong sân nhà khách. Sau bữa sáng nhanh gọn với mì ăn liền, mệnh lệnh hành quân được hạ đạt uy nghiêm như lên đường chiến đấu. Hàng trăm giám đốc, kỹ sư trẻ hàng ngũ chỉnh tề, ba lô, tăng võng đầy đủ lên đường, nhằm hướng những cánh rừng Tây Nguyên xa hút.

Nhóm của Nguyện tới cánh rừng Dục Nông, huyện Đắk Glây (Kon Tum) khi đã xế trưa. Nhìn rừng núi bạt ngàn, toàn cây cổ thụ và dây leo chằng chịt, anh bàn với nhóm của Công ty ACC đi…chung cho đỡ… “sợ”. Gửi xe ô tô ở Đồn biên phòng 673, hai đoàn lên đường với quyết tâm: “Sáng đi, chiều về”. Họ còn đặt cỗ, nhờ đồn biên phòng sắp giúp để chiều về ăn mừng thắng lợi.

Đòn cân não người chỉ huy

Dẫn đầu nhóm của Binh đoàn 12, với kinh nghiệm đi rừng Trường Sơn từ những năm chiến tranh, Thiếu tướng Hoàng Kiền giao tuyến xong khá sớm, quay ra dùng bữa tối tại thị trấn Đắc Glây. Ông tranh thủ liên hệ điện thoại với các đơn vị. Hầu hết các đơn vị đều hoàn thành, chỉ còn hai nhóm của Công ty Hương Giang và Công ty 36 vẫn chưa liên lạc được. Vị tướng mặt dần tái đi vì lo lắng.

21 giờ, vẫn chưa thấy tăm hơi hai nhóm đâu. Ở Đồn biên phòng 673, các mâm đầy ắp thức ăn nhưng không ai ăn. Tất cả kéo nhau vào rừng tìm kiếm suốt đêm nhưng không thấy tăm hơi. Anh em biên phòng nhận định, có lẽ đoàn đã lạc sang rừng nước bạn Lào. Mà rừng nước bạn còn rậm rịt, hoang vắng, còn cả hổ, báo, thú dữ, chẳng biết điều gì xảy ra. Anh Chung, Giám đốc Công ty Hương Giang bật khóc vì lo lắng. Trong số cán bộ đi nhận tuyến, có người em ruột của Chung…

Cả ngày hôm sau, các cuộc tìm kiếm vẫn không cho thấy kết quả gì…

Lại thêm một đêm nữa, Thiếu tướng Hoàng Kiền không ngủ được. Đã hướng dẫn tỉ mỉ thế, sao anh em lại lạc rừng? Hay sự cố xấu nhất xảy ra? Họ gặp thú dữ ăn thịt hay tai nạn đá rơi, trượt xuống vực? Nếu anh em có mệnh hệ gì, tuyến đường chưa mở mà một lúc mất cả chục cán bộ, biết ăn nói sao với thủ trưởng Bộ Quốc phòng, với Thủ tướng?

Trở lại với chuyến đi của Nguyện và anh em. Họ lội bộ vào rừng, càng đi rừng núi càng chênh vênh, trơn trượt, âm u, ẩm ướt. Nhiều chỗ phải nắm dây leo mà đu. Không ai bảo ai, họ bắt đầu vứt bớt đồ đạc cho đỡ nặng. Có anh chàng dùng chiếc thắt lưng da cá sấu còn mới cũng cởi ra…vứt! Càng vào sâu, rừng càng ẩm, vắt ra càng nhiều. Chúng bò lổm ngổm trên lá, tinh ranh chui vào chân, vào cổ, vào nách làm cánh lính trẻ kinh hoàng. “May mà hôm đó không gặp rắn! Sau này ở lại làm đường, chúng tôi mới biết vùng Dục Nông này rất nhiều rắn xanh” – anh Nguyện kể. Có cậu lái xe của Công ty ACC bị rắn chui vào ba-lô, lúc về mở ba-lô lấy quần áo thì bị rắn đớp, may mà đi cấp cứu kịp thời. Còn ở đơn vị Nguyện, có đêm mưa, anh Bắc cấp dưỡng dậy sớm nấu ăn cho anh em, anh quờ phải thứ gì bùng nhùng cạnh bao gạo, bực mình lẩm bẩm:

- Ai sửa xe, sửa máy gì mà cẩu thả vứt cả dây cu-roa vào bếp thế này?

Anh cáu tiết quay “sợi dây cu-roa” vào chỗ gần bếp lửa thì sợi dây cu-roa bỗng… biết đi. Trời ơi! Một con rắn lục đang ngóc đầu lên, thao láo nhìn anh.

Sau những chuyện kinh hoàng ấy, mỗi lần công trường di dời đến đâu, Nguyện đều phải mua hàng bó dây cao su phát cho anh em, đề phòng rắn cắn còn ga-rô kịp thời.

Trở lại với cuộc hành quân, đi, đi mãi vẫn chỉ thấy rừng mù mịt, Nguyện lo lắng hỏi Tuấn, người của đơn vị khảo sát:

- Cậu khảo sát trước thế nào mà đi hoài chẳng thấy đường. Xem lại kẻo lạc đấy!

Lúc này máy định vị GPS mới được Tuấn mở ra xem vì sợ hết pin. Dù sóng rất chập chờn nhưng máy cũng đủ báo đoàn đang lạc sang nước bạn Lào. Tất cả hoảng hốt tìm đường quay về. Rừng chiều sụp tối rất nhanh. Chỉ còn tiếng nai, tiếng hoẵng và những âm thanh kì dị của rừng đêm. Những chai nước cuối cùng đã cạn. Những chiếc đèn pin cuối cùng rồi cũng hết pin. Cả đoàn đành dừng chân. Khát khô cổ. Đói cồn cào. Bây giờ, họ mới ân hận vì sao nỡ ném nước, ném lương khô đi. May mà Nguyện còn nhớ lời tướng Hoàng Kiền dặn hôm qua. Nếu hết nước uống, cứ tìm cây bương (tre rừng), chặt ra, bên trong sẽ có nước uống được. Về cái ăn, lúc này thùng mì ăn liền và cái bếp ga Nguyện mang theo thật là quý hơn vàng. Chặt từng cây bương, nấu từng bát nước, cả nhóm cũng được mỗi người một bát mì lót dạ. Ăn xong, cả nhóm tìm cây cối, mắc võng sát nhau, không dám đốt lửa vì sợ rắn, thú dữ tìm về. Cả nhóm ai nấy trùm kín tăng, áo mưa, đi nguyên giày nằm co ro trên võng. Đêm rừng khuya hoang vắng, thi thoảng lại nghe tiếng sột soạt, lạo xạo nửa giống bước chân người, nửa giống bước chân thú đi trên lá. Nhiều anh thú nhận buồn đi tiểu nhưng không dám dậy vì sợ đụng rắn…

Một đêm nặng nề rồi cũng trôi qua.

Sáng hôm sau, cả nhóm lên đường, lại xuyên rừng đi ra. Họ đi mãi, đi mãi đến quá trưa thì cậu Tuấn reo lên:

- Nương lúa Việt Nam các anh ơi!

- Sao cậu biết là nương Việt Nam?

- Nương nhiều lúa, rộng và dài thế kia là bên Việt Nam mình rồi. Bà con bên Lào không có nương lớn thế.

Nghe Tuấn lý giải, cả nhóm reo lên sung sướng. Chiều hôm ấy thì họ tìm ra tuyến đường theo đúng bản đồ thiết kế rồi tìm vào được một bản gần đó. Có dân là có tất cả. Anh em nhờ trưởng bản nấu giúp một bữa cơm. Buổi tối thứ hai sau bữa cơm ngon tuyệt vời, cả nhóm đánh một giấc say như chết, chưa thể liên lạc về vì nơi này chưa có điện thoại. Mãi đến chiều hôm sau, họ mới tìm về tới Đồn biên phòng 673 trong niềm vui sướng vỡ òa của mọi người. Anh Chung ôm lấy anh em, nước mắt rưng rưng.

Nhóm của Công ty 36 (Binh đoàn 11) bị lạc rừng vì một lý do thật đơn giản. Cấp trên đã dặn dò đi rừng tới đâu phải phát cây đánh dấu tới đó nhưng rồi họ lại ngại. Để rồi, càng đi vào sâu, càng mất dấu. Hai đêm, mấy chàng lính trẻ “gà tồ” được một trận nhớ đời. Chẳng có gì ăn ngoài gói lương khô mang theo, các chàng cầm cự ăn dè với uống nước ống bương. Đêm đầu tiên, cả nhóm ngồi đốt lửa thay nhau cảnh giới bốn phía, không anh nào dám ngủ vì sợ thú dữ “vồ”. Hai ngày sau, họ mới lần mò tìm được đường ra an toàn…

Những gian khổ ấy mới chỉ là một phần rất nhỏ so với những thử thách mà người lính mở đường phải đương đầu trong những năm tháng sau đó…

Nguyên Minh – Đức Toàn


(Theo website Phùng Quang Thanh)

Phóng sự: Con đường “Nam quốc sơn hà” (Kỳ 1)


Kỳ 1: Từ cột mốc đến con đường chiến lược

Đường tuần tra biên giới ra đời không chỉ từ khát vọng ngàn đời của cha ông về một biên cương bình yên, no ấm mà còn từ cả những câu hỏi thực tiễn nóng bỏng. Những câu chuyện dưới đây sẽ giúp bạn đọc hình dung được sự ra đời của con đường này…

Từ sự cố cái cột mốc…

Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là người từng dành nhiều tâm huyết cho việc xây dựng con đường từ những ngày đầu. Qua điện thoại, khi tôi đặt vấn đề, nghe nói đến con đường, giọng ông sôi nổi: Đó là con đường chiến lược quốc gia! Một buổi sáng Hà Nội mưa tầm tã, trong căn phòng nhỏ ở Trạm khách 66, ông đã kể về sự ra đời của con đường…

“Cuối thập niên 80, tôi đang làm Tư lệnh Quân khu 3. Nhiều lần tới vùng biên giới Bình Liêu, Móng Cái (Quảng Ninh), tôi rất băn khoăn khi nhận thấy, còn nhiều nơi sâu vào nội địa 5-7km không có dân ở. Trong khi đó, bên kia biên giới, dân cư ở rất sầm uất và họ còn thả cả trâu bò sang đất ta. Mặc dù đã có Bộ đội Biên phòng làm nhiệm vụ, nhưng đi 5-7 km sát đường biên không hề thấy bóng dáng một người dân. Tự nhiên trong tôi xuất hiện cảm giác chống chếnh, bất ổn. Đó là chưa kể gần các cột mốc, đường biên chỉ có trục đường ra theo trục ngang. Từ đó, định hình ý tưởng phải đưa dân ra sát biên giới, rồi từ ý tưởng trở thành quyết tâm lớn của tôi. Mà muốn đưa dân ra được thì phải có đường đi.

Nhưng đó là mình nghĩ vậy, còn tâm tư nguyện vọng của dân thì sao? Tôi nhiều lần đi nắm tình hình, gặp người dân dò hỏi. Bà con nói rằng, rất muốn ra biên giới, sinh sống gần đường biên nhưng còn “ngại”, phần vì mìn còn chưa gỡ hết, phần vì…

Đoạn đường tuần tra biên giới ở Bù Gia Mập (Bình Phước) năm 2008...

Đoạn đường tuần tra biên giới ở Bù Gia Mập (Bình Phước) năm 2008...

Thế rồi, lại thêm một “sự cố” xảy ra. Đầu năm 1988, tại một cuộc họp Bộ Quốc phòng, Bộ tư lệnh Biên phòng báo cáo bị mất một cột mốc ở Quảng Ninh. Bộ đội Biên phòng và Quân khu 3 nhận lệnh phải đi tìm bằng được. Cuối cùng, người tìm ra cột mốc là một già làng 78 tuổi. Câu chuyện ấy càng thôi thúc tôi ý tưởng đưa dân ra biên giới. Tôi bàn với lãnh đạo Quân khu, đưa bộ đội ra trước, tổ chức rà mìn, làm nương rẫy. Sau đó, xin ý kiến của tỉnh Quảng Ninh để đưa dân về các bản cũ sát biên giới. Từ một xã thí điểm, dần mở rộng ra 2-3 xã. Người dân được làm nhà, giao đất, giao rừng quản lý, đồng thời cũng “giao” cho dân phối hợp với bộ đội quản lý đường biên, cột mốc. Dự án vùng kinh tế – quốc phòng ở Tiên Yên, Ba Chẽ đã hình thành. Ý tưởng làm đường càng thôi thúc. Tôi đặt vấn đề với Bộ Quốc phòng và được đồng ý. Thế là, chúng tôi triển khai xây dựng những đoạn “đường vành đai biên giới” đầu tiên. Sau đó, anh Tư Sang (đồng chí Trương Tấn Sang – Thường trực Ban Bí thư – PV) và một số lãnh đạo Đảng, Nhà nước đi kiểm tra đường tại Quảng Ninh đều đánh giá, khen ngợi cách làm này rất tốt, rất cần nhân rộng”.

Từ đoạn đường đầu tiên đó, các địa phương khác cũng từng bước xây dựng đường “vành đai biên giới”, tuy chỉ là đường nhỏ hẹp, cấp phối hoặc rải đá dăm nhưng rất thiết thực. Tính đến năm 2005, đã có 21 dự án dài 484 km do Bộ đội Biên phòng các tỉnh thực hiện.

…Đến “khoảng rừng nóng” Bù Gia Mập

Mùa hè năm 2004, vụ gây rối diễn ra ở Tây Nguyên. Đại tướng Phạm Văn Trà vào tìm hiểu tình hình, càng thấy rõ đòi hỏi hàng đầu đặt ra lúc này là phải có đường tốt hơn phục vụ tuần tra, kiểm soát biên giới. “Khó khăn nhất là từ Bình Phước đi Đắc Nông không có đường đi, phải xuyên qua rừng hoặc đi vòng 200km mới ra được biên giới. Lúc đó, tôi đã quyết định phải làm cho được đoạn đường gần 60km ở Đắc Nông, nhờ đó thông suốt tuyến biên giới từ Tây Ninh tới Đắc Nông. Tôi giao cho Bộ đội Công binh làm nhanh, với cơ chế đặc thù như xây dựng các công trình chiến đấu. Cùng với đó, yêu cầu xây dựng, hoàn thiện một đề án tổng thể về đường tuần tra biên giới đặt ra cấp bách và được lãnh đạo Đảng, Nhà nước rất ủng hộ. Theo tôi, đó là một bước đột phá, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta”- Đại tướng Phạm Văn Trà kể.

Thiếu tướng Hoàng Kiền, Giám đốc Ban quản lý dự án 47 khi đó là Tư lệnh Binh chủng Công binh nhận lệnh vào Tây Nguyên khảo sát, nhớ lại: “Chúng tôi tới rừng quốc gia Bù Gia Mập thuộc xã Đắc Ơ, là địa bàn có nhiều người vượt biên trái phép. Để làm gấp đoạn đường Bù Gia Mập, tôi đã chọn Trung đoàn Công binh 293, một trong những “quả đấm thép” của binh chủng. Sau một năm trời, với bàn tay miệt mài của người lính công binh 293, tuyến đường đầu tiên màu đất đỏ ba-dan như một sợi chỉ đỏ vắt ngang rừng đại ngàn”.

“Bản vẽ” con đường mang dáng hình đất nước

Thời gian này, việc xây dựng đề án tổng thể đường tuần tra biên giới được triển khai gấp rút. Trung tướng Phạm Hồng Lợi, lúc đó là Phó tổng tham mưu trưởng, Phó ban chỉ đạo Đường tuần tra biên giới liên tục đi khảo sát dọc biên cương. Thiếu tướng Hoàng Kiền nhớ lại: “Thủ tướng Chính phủ đã có tới 3 cuộc họp nghe lãnh đạo Bộ Quốc phòng báo cáo đề án con đường này. Lúc đầu, do nhiệm vụ cấp bách, Bộ Quốc phòng chỉ chuẩn bị phương án làm đường nhỏ, nền đường 3m, trải nhựa cấp phối hoặc đá dăm, đủ cho xe u-oát đi hoặc chỗ nào khó hơn thì đủ cho người, ngựa biên phòng đi tuần tra”. Đất nước còn nghèo, dù nhiệm vụ bảo vệ biên cương rất quan trọng, người lính không dám đòi hỏi sự ưu tiên, nhưng Chính phủ cùng các bộ, ngành lại có một câu hỏi được bàn thảo khá nhiều: “Nếu làm đường chỉ đủ đi tuần tra thì hơi phí? Liệu có thể làm một con đường lớn hơn, vừa phục vụ quốc phòng, vừa phục vụ dân sinh được không?”.

... và năm 2010.

... và năm 2010.

Ngày 4-11-2004, tại Hà Nội, Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì Hội nghị thường trực Chính phủ nghe Bộ Quốc phòng báo cáo dự thảo kế hoạch củng cố và xây dựng tuyến đường biên giới đất liền đến năm 2010. Sau khi nghe Thượng tướng Phùng Quang Thanh, khi đó là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng báo cáo, Thủ tướng đã kết luận: “Đã làm thì làm cho “đàng hoàng”, kết hợp tốt giữa kinh tế – xã hội với quốc phòng, an ninh. Không làm đường rộng 3m nữa mà phải làm đường lớn hơn”.

Đại tá Nguyễn Văn Hoàn, nguyên Phó tư lệnh Công binh, được giao làm giám đốc đầu tiên của Ban quản lý dự án 47 kể: “Sau đó, chúng tôi đã xác định quyết tâm năm 2005 sẽ lập xong dự thảo đề án. Hàng loạt đơn vị khảo sát thiết kế tinh nhuệ nhất của Bộ Quốc phòng vào cuộc khẩn trương nên đến đầu tháng 8-2005 đã khảo sát được gần 5000km biên giới, dù xăng dầu, kinh phí chưa bảo đảm. Một phương án tuyến của con đường từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Hà Tiên (Kiên Giang) đã ra đời. Có phương án tuyến, chúng tôi lại lên đường đi khảo sát cụ thể nhiều khu vực trọng điểm. Đoàn cán bộ, đa số đã kinh qua đánh Mỹ, dạn dày với mưa bom bão đạn, nay lại khoác ba lô trèo đèo, lội suối, băng rừng xác định từng cọc mốc, từng hướng tuyến sao cho ngắn nhất, hợp lý nhất, kinh tế nhất. Suốt mấy tháng trời, chúng tôi đi từ Bình Phước, dọc theo dòng suối sát biên, từ bìa rừng Bù Gia Mập sang Đắc Nông, đến những cánh rừng khộp Gia Lai, nơi còn in dấu đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử. Hết Tây Nguyên, chúng tôi lại ra Nghệ An, Thanh Hóa. Tới Sơn La, ngược dòng sông Mã, chúng tôi đi từ Chiềng Khương sang Sốp Cộp, từ Sông Mã sang Điện Biên rồi lại về biên giới Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng. Càng đi càng thấy đất nước ta hùng vĩ, dân tộc ta anh hùng, nhân dân ta cần cù chịu khó. Chúng tôi hiểu sứ mệnh của mình. Đau, yếu, sai khớp, chuột rút, có đồng chí bị ngã vì núi cao, đường trơn nhưng không ai chịu bỏ cuộc”.

Dự thảo đề án ở mức hoàn chỉnh hơn ra đời. Con đường bây giờ là đường ô tô có thể chạy suốt dọc dài biên giới, nền đường rộng 5,5m, mặt đường 3,5m, kết cấu bê tông xi măng; các công trình trên đường làm bằng thép và bê tông cốt thép.

Một ngày cuối năm 2005, tại Hội nghị thường trực Chính phủ, nghe Bộ Quốc phòng báo cáo dự thảo đề án, Thủ tướng Phan Văn Khải khá hài lòng. Phát biểu kết luận, ông nhấn mạnh: “Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng giao cho Bộ Quốc phòng, làm sao cho “nhanh, bền, tốt, rẻ, không có tiêu cực”. Thủ tướng giao cho Bộ Quốc phòng sớm bổ sung hoàn chỉnh đề án.

Con đường theo đề án phác thảo dài 14.250km, trong đó xây dựng mới hơn 10.196km, qua 25 tỉnh, dài hơn cả Vạn Lý Trường Thành, dự kiến sẽ phải làm trong hàng chục năm mới hoàn thành. Từng có nhiều cuộc tranh luận khác nhau về hình thức đấu thầu hay chỉ định thầu? Nhưng đây là con đường sẽ được làm trong điều kiện vô cùng gian khó mà có lẽ chỉ những người lính Bộ đội Cụ Hồ với truyền thống “nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua” mới có thể gánh vác. Vì vậy, khi lãnh đạo Bộ Quốc phòng đề nghị Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho phép xác định đây là công trình quốc phòng an ninh, quản lý theo cơ chế đặc thù, sử dụng lực lượng quân đội thi công theo hình thức chỉ định thầu, Thủ tướng tán thành. Tuy nhiên, Thủ tướng cũng nói ngay: Việc này không thể một mình cá nhân Thủ tướng quyết được mà phải có một nghị quyết của Chính phủ.

Tại phiên họp thường kỳ của Chính phủ vào tháng 12-2006, Chính phủ đã ra Nghị quyết về đường tuần tra biên giới, nhất trí với đề nghị trên. Ngày 14-3-2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định mang số 313/QĐ-TTg phê duyệt đề án “Quy hoạch xây dựng đường TTBG đất liền giai đoạn 2006-2010 và những năm tiếp theo”.

Quyết định của Thủ tướng đã trở thành một cột mốc quan trọng, khẳng định tầm vóc chiến lược quốc gia của đường tuần tra biên giới, con đường mang dáng hình đất nước…

————————-

Kỳ 2: Cuộc ra quân “nhớ đời”

Phóng sự của NGUYÊN MINH – ĐỨC TOÀN


(Theo website Phùng Quang Thanh)