NATO bắt đầu sử dụng trực thăng vũ trang không kích Li-bi


Người phát ngôn NATO ngày 4-6 thông báo, NATO đã bắt đầu sử dụng trực thăng vũ trang để tấn công các xe quân sự, thiết bị quân sự và lực lượng trung thành với nhà lãnh đạo Li-bi M.Ca-đa-phi (M.Kadhafi).

Lần đầu tiên các máy bay trực thăng vũ trang của NATO đã bắt đầu được sử dụng trong các cuộc không kích từ rạng sáng 4-6. Theo người phát ngôn của NATO, việc sử dụng máy bay trực thăng vũ trang tấn công các mục tiêu ở Li-bi sẽ giúp hoạt động của NATO linh hoạt hơn, đặc biệt trong việc tấn công các lực lượng ủng hộ ông Ca-đa-phi thường ẩn náu trong các khu đông dân cư. Người phát ngôn của NATO còn nhấn mạnh, ngoài việc truy tìm và tiêu diệt lực lượng trung thành với nhà lãnh đạo Ca-đa-phi, các máy bay trực thăng này còn hỗ trợ các hoạt động của lực lượng chống chính phủ khi cần thiết. Các tướng lĩnh của NATO tin rằng, sức mạnh và sự cơ động của máy bay trực thăng chiến đấu sẽ giúp NATO tăng cường sức mạnh, rút ngắn thời gian tham chiến ở Li-bi.

Binh sĩ Pháp kiểm tra các máy bay trực thăng vũ trang sẽ làm nhiệm vụ tấn công Li-bi. Ảnh: Roi-tơ

Cùng ngày, người phát ngôn của Bộ Tổng tham mưu quân đội Hoàng gia Anh, Thiếu tướng Ních Pốp (Nick Pope) xác nhận, các trực thăng vũ trang Apache thuộc lực lượng phản ứng nhanh của Hải quân Anh, xuất phát từ tàu chở trực thăng HMSS Ocean đậu ở vùng biển Bắc Phi, đã phá hủy một trạm ra-đa và một trạm kiểm soát quân sự ở gần thành phố Brê-ga (Brega). Cùng tham gia chiến dịch trên còn có các trực thăng vũ trang Gazelle và Tigre của Pháp, xuất phát từ tàu chiến Tonnerre. Trong chiến dịch này, NATO cũng sử dụng tên lửa và pháo 30 ly.

Vụ tấn công bằng trực thăng vũ trang được thực hiện chỉ vài giờ trước khi Ngoại trưởng Anh U.Ha-gơ (W.Hague) tới Ben-ga-di (Benghazi), đại bản doanh của lực lượng nổi dậy tại Li-bi. Anh đã công nhận Hội đồng Dân tộc chuyển tiếp (NTC) của lực lượng chống chính phủ Li-bi là “bên đối thoại chính trị hợp pháp và là đối tác của Anh tại Li-bi”.

Trong một diễn biến khác, Đặc phái viên của Tổng thống Nga phụ trách các vấn đề châu Phi, ông M.Ma-gê-lốp (M.Margelov) ngày 4-6 cho biết, ông sẽ tới Ben-ga-di ngày 6-6 để gặp đại diện phe chống đối và một số lực lượng chính trị khác ở Li-bi nhằm thảo luận về việc giải quyết tình hình hiện nay tại nước này. Ông Ma-gê-lốp không loại trừ khả năng ông sẽ đến Tri-pô-li, đồng thời khẳng định lại lập trường của Nga là ủng hộ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Li-bi.

Liên quan tới tình hình Li-bi, Hạ viện Mỹ cũng vừa thông qua nghị quyết khiển trách Tổng thống B.Ô-ba-ma (B.Obama) về việc đã không xin phép Quốc hội và vẫn tiếp tục duy trì vai trò của Mỹ trong các chiến dịch quân sự của NATO tại Li-bi. Nghị quyết, được thông qua với 268 phiếu thuận và 145 phiếu chống, kêu gọi Nhà Trắng trong vòng 14 ngày phải có báo cáo chi tiết giải thích rõ các mục đích quân sự và chính trị của Mỹ trong vấn đề Li-bi, các phí tổn cũng như khoảng thời gian mà Mỹ dự kiến tham gia cuộc chiến này. Tuy chưa tới mức yêu cầu chấm dứt ngay sứ mệnh quân sự của Mỹ tại Li-bi, nhưng nghị quyết yêu cầu Nhà Trắng phải giải thích rõ lý do vì sao Tổng thống Ô-ba-ma đã không xin phép Quốc hội trước khi đưa quân đội Mỹ tham gia các chiến dịch quân sự tại Li-bi. Nghị quyết cũng cảnh báo rằng, Quốc hội Mỹ, theo Hiến pháp, có quyền từ chối cấp ngân sách cho mọi hoạt động của quân đội Mỹ mà không được Quốc hội chấp thuận.

Nguyễn Hòa


(Theo www.phungquangthanh.com)

Hoa hậu Hương Giang đến quần đảo Trường Sa và nhà giàn DK1


Tháng 5 vừa qua Trung ương ĐTNCSHCM phối hợp cùng Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân tổ chức hành trình “Tuổi trẻ vì Biển đảo quê hương năm 2011”. Trong số Cán bộ, Đoàn viên, Thanh niên, Sinh viên tiêu biểu đại diện cho tuổi trẻ cả nước tham gia hành trình có người mẫu, hoa hậu Trần Thị Hương Giang(Tốp 10 Hoa hậu phụ nữ Việt Nam qua ảnh 2005, Hoa hậu Hải Dương 2006, Tốp 10 Hoa hậu Việt Nam 2006, Á hậu 2 Hoa hậu Việt Nam toàn cầu 2009, Tốp 16 Hoa hậu thế giới 2009, Hoa hậu đẹp nhất châu Á 2010…). Đây là lần đầu tiên một người đẹp – hoa hậu cùng đoàn hành trình đến thăm cán bộ, chiến sĩ, nhân dân trên quần đảo Trường Sa và nhà giàn DK1.

Hương Giang cùng đoàn hành trình trên xuồng để lên đảo.

Qua 12 ngày đêm hành trình trên biển, hoạt động trên các điểm đảo và nhà giàn, Hương Giang luôn gần gũi cởi mở với các bạn trẻ, tham gia sôi nổi nhiệt tình vào các hoạt động chung của đoàn hành trình để lại ấn tượng tốt đối với cán bộ chiến sỹ và nhân dân trên đảo.

Giao lưu văn nghệ cùng các thủy thủ trên tàu HQ936.

Báo QĐND Online xin gửi tới bạn đọc một số hình ảnh của hoa hậu Hương Giang trong hành trình tuổi trẻ vì biển đảo quê hương năm 2011.

Tham gia văn nghệ trên đảo Trường Sa Lớn.
Giao lưu cùng bộ đội Hải quân.
Trò chuyện cùng bộ đội Phòng không trên đảo.
Thăm các hộ dân trên đảo.
Tham quan nuôi cá lồng ở Trường Sa.
Chia tay nhà giàn DK1.
Chụp ảnh hoa bàng vuông, món quà ý nghĩa chỉ có ở Trường Sa.

Vũ Hoàng (thực hiện)


(Theo www.phungquangthanh.com)

Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh: Nếu xung đột không ai thắng


Vừa trở về từ Đối thoại Shangri-La, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Bộ Quốc phòng, lại chuẩn bị chuyến công du Indonesia dự Hội nghị quốc phòng khu vực ASEAN vào ngày 7-6. Dành cho Tuổi Trẻ cuộc trao đổi tối 6-6, ông nói:

- Tại Đối thoại Shangri-La, vấn đề biển Đông được dư luận quốc tế hết sức quan tâm.

Có hai lý do: Thứ nhất là lợi ích trên biển Đông ngày càng phát triển, can dự của các nước lớn vào đây ngày càng nhiều. Thứ hai, tuy cho rằng tình hình biển Đông về cơ bản là ổn định, các nước đều mong muốn hòa bình để phát triển, nhưng những sự kiện gần đây cho thấy biển Đông là khu vực không hề yên tĩnh.

Về phía nước ta đã mang đến Đối thoại Shangri-La thông điệp rất rõ ràng. Trước hết bày tỏ mong muốn biển Đông là khu vực hòa bình, ổn định, nhưng phải trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng luật pháp quốc tế. Việt Nam giải quyết các vấn đề trên biển Đông bằng giải pháp hòa bình và công khai, minh bạch. Việt Nam cũng đề nghị cần phải chấm dứt, không để tái diễn các sự kiện trên biển Đông có thể dẫn đến leo thang về tranh chấp, đặc biệt có thể làm ngòi nổ cho các cuộc xung đột.

Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh trong buổi trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ ngày 6-6 sau khi trở về từ Đối thoại Shangri-La.

Nếu có xung đột trên biển Đông thì không bên nào thắng, thiệt hại trước hết cho các nước tham gia xung đột và ảnh hưởng đến tất cả những nước có lợi ích ở khu vực.

Trên cơ sở quan điểm chính thống như vậy, đoàn Việt Nam đã nêu sự kiện ngày 26-5 (sự kiện tàu hải giám của Trung Quốc cắt cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam – PV) như là một báo động cho việc không tuân thủ luật pháp quốc tế.

Quan điểm của Việt Nam là các nước có xung đột giải quyết với nhau trên tinh thần cùng lợi ích nhưng công khai, minh bạch và tôn trọng luật pháp quốc tế. Không nước nào, không thế lực nào được quyền tự đặt ra những luật lệ riêng của họ, không có nước nào được bước qua luật lệ quốc tế đã được thừa nhận hoặc là những thông lệ trong hành xử của thế giới hiện đại ngày nay.

* Với những diễn biến gần đây trên biển Đông, theo ông, đâu là giải pháp ngắn hạn và dài hạn cần thiết cho Việt Nam?

- Đối với những vấn đề cụ thể như sự kiện ngày 26-5, chúng ta phải nhìn nhận đúng bản chất trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đây là vụ việc nghiêm trọng về tính chất cũng như hệ lụy lâu dài. Việc tàu chấp pháp của nước ngoài vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam để hoạt động mang tính chất pháp luật là hiếm có trong quan hệ trên biển. Việc này vừa gây thiệt hại kinh tế cho Việt Nam, vừa là một hành động bạo lực dưới danh nghĩa dân sự.

Nếu bạo lực đó không được kiềm chế thì sẽ phát triển leo thang. Trung Quốc dựa trên cơ sở nào để có hành xử như vậy?

Nếu về luật quốc tế thì chỉ có duy nhất “đường 9 khúc” mà Trung Quốc tự đưa ra, mà theo tôi được biết chưa có nước nào hay tổ chức quốc tế nào thừa nhận và chưa có chứng lý nào khả dĩ để chứng minh. Như vậy, phải chăng Trung Quốc đang đi những bước đầu tiên để hiện thực hóa “đường 9 khúc”? Nếu vấn đề này là có thật thì rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến lợi ích không chỉ Việt Nam mà nhiều nước khác.

Muốn giải quyết được những vấn đề tương tự, chúng ta phải bằng chính nỗ lực, nội lực của mình và giải quyết với chính nước có vấn đề với Việt Nam, cụ thể ở đây là Trung Quốc. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta đóng cửa.

Chúng ta giải quyết trực tiếp với nước có tranh chấp, không lôi ai vào đây để cùng giải quyết, không nhờ vả ai để tạo lợi thế trong giải quyết vấn đề. Nhưng chúng ta công khai, minh bạch, ví dụ như những phát biểu tại Đối thoại Shangri-La của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh sẽ làm cho cộng đồng thế giới hiểu được ai đúng, ai sai và họ sẽ phán quyết về mặt lương tâm là lẽ phải thuộc về bên nào.

Tiếp theo, chúng ta giải quyết bằng biện pháp hòa bình, và chúng ta có cơ sở để kiên trì giải pháp hòa bình trên tinh thần tăng cường đoàn kết, hữu nghị, tăng cường sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Trong thế giới toàn cầu hóa, Trung Quốc cần một hình ảnh tốt đẹp để phát triển quan hệ ngoại giao, kinh tế, xã hội…

Trong không gian phát triển của Trung Quốc, phía nam là hướng tương đối ổn định, khu vực ASEAN là cửa ngõ để Trung Quốc vươn ra xa hơn. Liệu Trung Quốc có thể “cắt” cái cửa này được không, làm cho khu vực này có những quốc gia không bằng lòng với chính sách của Trung Quốc được không?

Chúng ta tin tưởng các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu được vấn đề này. Trên cơ sở nhận thức như vậy, nhưng giải pháp của chúng ta sẽ mang lại lợi ích cho chúng ta và lợi ích cho chính Trung Quốc, và có thể sẽ được hiện thực hóa trong tương lai, tất nhiên nó sẽ vô cùng lâu dài và khó khăn, nhưng phải kiên trì.

Vấn đề cần thiết nữa là chúng ta phải tăng cường sự tin cậy, hiểu biết lẫn nhau với Trung Quốc. Chúng ta muốn hòa bình, hòa hiếu, chỉ muốn giữ mảnh đất, vùng biển của chúng ta theo điều luật quốc tế quy định, và chúng ta cần giữ được độc lập tự chủ về đường lối.

Khi nói để bảo vệ Tổ quốc thì phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân, trong đó xây dựng tiềm lực quốc phòng là nhiệm vụ trung tâm và là nét đặc trưng. Chúng ta phải tăng cường các hoạt động đánh cá vùng biển xa, kêu gọi hợp tác đầu tư ở vùng biển thuộc chủ quyền Việt Nam, hình thành lực lượng kiểm ngư, phát triển Trường Sa ngày càng tốt lên, giao lưu giữa biển đảo và bờ…

Một điểm nữa là tuyên truyền trong nhân dân. Nhân dân ta rất yêu nước, sẵn sàng làm tất cả để bảo vệ Tổ quốc. Cần tuyên truyền để dân ta hiểu Công ước Luật biển 1982 là thế nào, biển Đông của chúng ta đến đâu, chúng ta phải hành xử thế nào, các nước hành xử ra sao… để mỗi người đều có tinh thần đấu tranh nhưng phải trên cơ sở luật pháp quốc tế, đấu tranh chính xác để các nước tâm phục khẩu phục, chứ không phải chỉ là những lời nói suông. Chúng ta cũng phải tuyên truyền rộng rãi để cộng đồng thế giới biết ai đúng ai sai.

Trở lại câu chuyện tại Đối thoại Shangri-La, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh nói:

- Có người hỏi tôi: “Ngài có thất vọng không trước phát biểu của một số nước năm trước rất cứng rắn, năm nay dịu giọng khác hẳn?”. Tôi đáp: “Tôi nhận thấy điều đó, nhưng tôi không thất vọng. Trước hết là vì chúng tôi không đặt cược vào phát biểu của các nước đó. Thứ hai, tôi nghĩ do sự kiện ngày 26-5 mới diễn ra ngay trước thềm hội nghị nên thông tin về vụ việc cũng như hệ lụy của nó chưa được hiểu đầy đủ. Tôi tin một thời gian nữa khi họ hiểu đầy đủ, họ sẽ nhắc lại vấn đề này”.

Trong thế giới mở, toàn cầu hóa hiện nay, khi có xung đột, không nước nào đứng ngoài được. Không nước nào trục lợi được cả, có chăng là trục lợi cục bộ, trục lợi tham lam. Còn nếu muốn tìm kiếm lợi ích thật sự cho đất nước mình một cách chính đáng và lâu dài thì xung đột không đem lại lợi ích cho ai cả.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chúng ta luôn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Sức mạnh ấy là sức mạnh chính nghĩa, được thế giới thừa nhận và ngay chính nội bộ, nhân dân đất nước gây hấn với chúng ta cũng đồng tình với chính nghĩa của chúng ta. Đó là quyền lực mềm, trong thế giới ngày nay điều đó vô cùng quan trọng. Quyền lực mềm ấy chi phối mọi hành động từ chính trị, kinh tế tới văn hóa, xã hội…

Điểm cuối cùng là chúng ta cần quan tâm xây dựng quân đội tinh gọn, hiện đại. Không trang bị vũ khí có tính chất tấn công mà chỉ mang tính tự vệ. Không tham gia các liên minh quân sự. Đặc biệt không gây lo ngại cho bất kỳ quốc gia nào về đe dọa sử dụng vũ lực. Vừa rồi chúng ta mua tàu ngầm, máy bay… hoàn toàn là để phòng thủ.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh phát biểu tại Đối thoại Shangri-La nói rằng tàu ngầm của chúng tôi chỉ hoạt động ở vùng biển Việt Nam. Đó là điều rất hiếm, rất đặc sắc Việt Nam.

* Năng lực quân sự hiện nay đã đủ đáp ứng yêu cầu về phòng thủ biển Đông, thưa ông?

- Tôi xin nói ngay với tư cách chuyên gia quân sự, rằng không bao giờ là đủ đối với trang bị quân đội bất kỳ nước nào. Trang bị quốc phòng bao giờ cũng ở tình thế cần phát triển. Chúng ta trang bị vũ khí vừa đủ theo đường lối quân sự Việt Nam, cách đánh của Việt Nam. Tin rằng với sức mạnh tổng hợp như đã nói, chúng ta có thể giành chiến thắng trong mọi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.

* Nhưng vấn đề là chúng ta kiểm soát toàn bộ vùng biển thuộc chủ quyền của ta ra sao để có thể phát hiện và ngăn chặn kịp thời sự xâm nhập và xâm nhập rất sâu vào vùng chủ quyền Việt Nam để gây hấn của tàu nước ngoài?

- Việc kiểm soát vùng biển của mọi quốc gia đều vô cùng khó khăn. Chúng ta đang cố gắng kiểm soát tốt nhất vùng biển của mình. Nhưng như sự việc ngày 26-5 vừa qua, việc lưu thông vô hại là quyền của các nước, ta không có quyền ngăn cấm, ngược lại ta còn phải bảo vệ họ. Tàu hải giám Trung Quốc vi phạm là khi bắt đầu lao vào tàu Bình Minh 02 cắt cáp.

* Sự phối hợp giữa các lực lượng như hải quân, cảnh sát biển, biên phòng, kiểm ngư… như thế nào để bảo vệ chủ quyền, bảo vệ an ninh an toàn cho ngư dân?

- Chủ trương của ta trong các va chạm dân sự thì các chủ thể dân sự giải quyết với nhau trên cơ sở giám sát của các cơ quan pháp luật, cơ sở luật pháp quốc tế và nước mình. Quân đội theo dõi, giám sát chặt chẽ không để vụ việc leo thang nhưng không tham gia giải quyết. Như vụ tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 vừa rồi, ta không đưa hải quân trở thành chủ thể giải quyết. Khác nhiều nước ở chỗ ấy.

Có người hỏi tôi: sao ngư dân ta bị các nước bắt thì bị phạt tiền, xử nặng nhưng khi ngư dân họ vi phạm pháp luật, chủ quyền của ta, ta không hành xử như thế? Ngư dân các nước cũng là người lao động, là dân nghèo. Lỗi của họ chỉ là phần nhỏ. Lỗi chính là ở người quản lý họ. Nếu vi phạm mình lập biên bản, bắt viết cam kết không tái phạm, nếu tái phạm sẽ xử lý trước pháp luật. Rồi mình cung cấp dầu, nước, lương thực mời họ ra. Cái đó là truyền thống dân tộc mình.

Nếu ngư dân mình vi phạm luật pháp nước khác, mình đồng tình xử lý theo pháp luật, nhưng một điều không chấp nhận được là đối xử vô nhân đạo với ngư dân. Cắt dầu, cắt nước, cắt lương thực, tháo dỡ các phương tiện đi biển, phương tiện thông tin liên lạc… Đó là cách hành xử thô bạo, gây nguy hiểm tính mạng ngư dân. Chúng ta kiên quyết phản đối nhưng ta cũng không lấy hành động tương tự để trả đũa.

* Liệu cách hành xử của Philippines có giá trị tham khảo đối với Việt Nam: lập hồ sơ những vụ việc để đưa lên Liên Hiệp Quốc?

- Ở đây có hai câu hỏi: câu hỏi một, Philippines đưa hải quân, không quân ra, sao Việt Nam không đưa ra? Tôi nói quan trọng nhất là chúng ta đạt được mục đích, đó là mời tàu vi phạm luật pháp về. Tàu Bình Minh 02 được bảo vệ để tiếp tục khảo sát thăm dò chính ở vùng biển ấy. Và chúng ta phản ứng ở các kênh với Trung Quốc và công khai minh bạch với các nước khác để thấy đúng sai. Như vậy mục đích đạt được, không cần huy động lực lượng quân sự. Cái đó mới lâu bền, thể hiện sự kiềm chế của chúng ta, quyết tâm không để xảy ra xung đột.

Câu hỏi hai, xây dựng hồ sơ đưa lên tòa án quốc tế cũng là một lựa chọn. Nhưng xét cho cùng, Việt Nam và Trung Quốc vẫn phải giải quyết với nhau. Tòa án quốc tế đem lại chính nghĩa về mặt lương tâm, tiếng nói của cộng đồng thế giới để Trung Quốc tự nhìn nhận lại mình. Còn về thực địa, không ai “sờ” vào được. Mình không cự tuyệt lựa chọn này. Nhưng chủ trương của ta hiện nay, theo tôi là đúng đắn, chưa cần thiết tới sự lựa chọn ấy.

* Ông đánh giá thế nào về khả năng ra đời COC (Bộ quy tắc ứng xử tại biển Đông)?

- COC là văn kiện cần thiết cho ASEAN và Trung Quốc, được nhiều nước quan tâm để cải thiện mối quan hệ trên biển Đông. ASEAN cam kết thực hiện tốt DOC (Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông) và tiến tới COC. Như Indonesia tuyên bố cố gắng cuối năm nay có được COC. Thủ tướng Campuchia Hun Sen mong muốn năm sau kỷ niệm mười năm DOC tại Phnom Penh sẽ ký luôn COC. Hội nghị bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN.5 cũng khẳng định cần khẩn trương xây dựng COC.

Tuy nhiên còn nhiều khó khăn. ASEAN và Trung Quốc chưa xác định được lộ trình tiến đến COC, còn tùy thuộc vào sự thống nhất trong ASEAN và sự đồng tình tham gia của Trung Quốc. Nhưng trước hết, việc tạo được sự đồng thuận trong ASEAN về cố gắng xây dựng COC cũng là sức mạnh để đấu tranh.

* Đã có người ví ASEAN cần như bó đũa?

- Chúng ta không thể trông chờ ASEAN đồng thuận trong mọi vấn đề. Sự can dự của các nước vào ASEAN rất khác nhau. ASEAN chọn những vấn đề chung nhất để tạo sự đồng thuận và rất may mắn trong đó có vấn đề biển Đông, vấn đề hòa bình ổn định, DOC…

Tôi rất mong có COC nhưng không coi COC là trang bị pháp lý tuyệt đối, đầy đủ để giải quyết mọi vấn đề ở biển Đông. Cái mà chúng ta chờ đợi là hành động của chính mình, giải quyết trực tiếp với những quốc gia có khác biệt, tranh chấp với chúng ta như đã đề cập. Không thể trông chờ vào một nước nào đó, một diễn đàn đa phương nào đó bởi những yếu tố này chỉ là hỗ trợ. Ngay cả Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển họ còn coi thường thì cũng không lấy gì đảm bảo COC giải quyết được vấn đề.

* Việc đầu tư nghiên cứu biển Đông, xây dựng Luật biển có ý nghĩa như thế nào, thưa ông?

- Chúng ta phải luật hóa, dân sự hóa, kinh tế hóa, xã hội hóa, quốc tế hóa các hoạt động kinh tế xã hội trên vùng biển của chúng ta. Cái đó là biện pháp cơ bản, lâu dài khẳng định chủ quyền của chúng ta.

* Xin cảm ơn thứ trưởng.

* Những vụ việc gần đây trên biển Đông cho thấy giữa tuyên bố của lãnh đạo Trung Quốc với hành động thực tế rất khác biệt, nói không đi đôi với làm, thậm chí việc làm đi ngược lại với lời nói. Ông nghĩ sao về việc này?

- Cái đó thời gian sẽ trả lời. Bộ trưởng Lương Quang Liệt phát biểu tại Shangri-La rất tầm cỡ, rất hòa hiếu, thiện chí. Chúng ta chờ những hành động cụ thể thể hiện thiện chí đó. Còn với một đất nước có một sự quản lý chặt chẽ như Trung Quốc, việc cấp dưới đi ngược lại ý kiến cấp trên là điều khó xảy ra. Vụ tàu Bình Minh 02 nghiêm trọng ở chỗ trước đây Trung Quốc cũng đã đâm tàu và cắt cáp rồi, nhưng khu vực xảy ra là ở vùng ngoài 200 hải lý hoặc vùng tranh chấp. Còn đây là vào rất sâu vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Thứ hai, không phải tàu cá đâm tàu cá mà đây là tàu chấp pháp xử lý một tàu dân sự trong vùng biển Việt Nam. Thứ ba, đó là hành vi bạo lực.

Theo Tuoitre


(Theo www.phungquangthanh.com)

General Phung Quang Thanh: Vietnam’s defence policy is peace, self-defence


General Phung Quang Thanh, Minister of National Defence of Vietnam, on June 5 delivered a speech at the fifth plenary session of the Shangri-La Dialogue, stating that Vietnam ’s defence policies are directed at peace and self-defence.

The fifth plenary session of the 10 th Shangri-La Dialogue in Singapore focused on responding to new maritime security threats in the East Sea.

General Phung Quang Thanh

The Vietnamese Minister said “Responding to New Maritime Security Threats” is really a theme of crucially topical relevance to the peace, stability and development in the region and the world.

“When talking about the sea in the 21st century, we are all aware of the fact that it is the space for survival and growth, as well as the future for our modern world. This is true to both littoral and non-littoral states with or without sovereignty cross-claims.

He mentioned to another striking feature of the sea in modern times that is the intensified engagement of countries in all relevant aspects with a view to securing their immediate and perennial national interests that are of vital strategic nature.

The minister noted, “Against such a backdrop, relationship and cooperation in the region are witnessing a robust growth, greatly benefiting nations, region and the entire world. At the same time, there arise differences, fractions and even conflicts. That is an objective reality that we should not try to evade. Rather, we must face it boldly simply because cooperation and contradiction are the two sides of the one matter pertaining to the maritime exploitation and development.

That requires us of a comprehensive perception of the global nature of the sea in the modern world. Naturally, no challenges confront exclusively to just one country. Instead, they present as common ones to all nations, either directly or indirectly, who must engage one another in good faith with a view to intensifying mutual understanding and cooperation while mitigating differences, fractions and conflicts.

So what can we do to achieve such a comprehensive and multilateral approach so as to improve our conditions, effectively tap the natural resources, the environment and the space endowed by the seas and oceans, thus benefiting our legitimate national, regional and international interests?”

He underscored, “First and foremost, we need to build a common and proper understanding of the values, new features, benefits as well as challenges that are shared and faced by all the nations. As the world evolves dynamically, there naturally emerges an array of non-traditional security challenges beside traditional ones. It is the diverse and intertwining nature of development and challenge, benefits and conflicts that makes it all the more necessary to enhance cooperation, both bilaterally and multilaterally to find common solutions.

Secondly, it is necessary for us to strengthen our legal basis for activities at sea with an aim to facilitate cooperation for development and deter actions that risk our common interests, regionally and nationally. We must respect each other national sovereignty and territorial integrity while seeking for proper solutions to arising disputes in this respect. Above all, it is a must for us to strictly uphold and abide fully by the 1982 United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS 1982). Coming home to Southeast Asia, it is incumbent upon the concerned parties to fully implement the Declaration on the Conducts of Parties in the South China Sea (DOC) and work towards the conclusion of a Code of Conducts (COC) between ASEAN and China . Besides, common efforts to re-enforce the effectiveness of the existing arrangements such as the East Asia Summit with Russia and the US as new members, and to form up new security architectures as seen in the recently established ASEAN Defence Ministers Meeting Plus (ADMM+), reflect the need and prospective for cooperation between ASEAN and its partners sharing common interests in the region. Such mechanisms are very promising in bringing about a good future as long as ASEAN can thrive on its solidarity and unity, bringing into full play its central role and securing the harmony between rights and responsibilities with and among its dialogue partner countries.

Thirdly, we have to further our maritime cooperation for development via both bilateral and multilateral channels for the sake of mutual respect and understanding. In this connection, defence cooperation has an extremely important role to play in building and enhancing trust among the militaries, ensuring the absolute no use or threat to use of force, thus preserving peace, stability, protecting peaceful labor, economic and other maritime activities.

An example of success story is the Malacca Strait , where stability prevails, thus contributing to regional economic growth. In this regard, we highly value the cooperative efforts by navies of directly relevant countries including Indonesia , Malaysia and Singapore , and also the joint support of other navies inside and outside the area. Similarly, the Vietnam People’s Navy has been increasing its cooperative activities like joint patrols, establishment of hotlines of communication with navies from China , Thailand and Cambodia as well as prospective coordinated patrols with Malaysia and Indonesia . We believe that these activities should very much benefit the security and order in the East Sea (or South China Sea).

Fourthly, regarding the incidents occurring at sea we must exercise patience, self-restraint and calmness from the strategic vision and full insight into the characteristics of the times, which requires strictly honouring and observing the international laws in a transparent manner.

Platforms like this Shangri-La Dialogue offer us good opportunities to realise our transparency policy by sharing with each other our perspectives on interests, challenges and also concerns of ours, as well as publicly informing our national defence policies. One thing for sure is the dual need in undertaking cooperation, that is the need to protect our national sovereignty and national interests on one hand and the need to keep our region in peace, stability and development on the other. This is the shared cornerstone in our relationship that ensures our mutual benefits as well as a healthy and stable environment for development of each and every nation.”

Minister Thanh referred to the case of the East Sea , saying clashing incidents have happened from time to time, giving rise to concerns for the littoral states. The most recent one took place on 26 May 2011 when the Binh Minh 02 – a Vietnamese surveying ship conducting its normal oil and gas exploration activities well within Vietnam’s 200 nautical mile Exclusive Economic Zone was interrupted with its surveying cables cut, which has caused a considerable concern on the maintenance of peace and stability in the East Sea, in the region as well as the wider world.

“Vietnam has exercised patience in managing the incident with peaceful means in accordance with the international laws and the principle of determinedly protecting our national sovereignty while preserving peace and stability in the East Sea, and maintaining the friendly relationship with neighbouring countries. Certainly, we truly expect no repetition of similar incidents,” the Minister emphasised.

He went on to say, “As a littoral state which is inflicted by wars, we deeply understand the values of peace and stability for our national construction and development. In this connection, Vietnam ’s defence policies are directed at peace and self-defence.”

“We hold the line of expanding cooperative relations to militaries both inside and outside the region for the sake of promoting mutual understanding and respect, collaborating in activities to respond to common security threats, including those from the sea,” Minister Thanh said.

He affirmed that Vietnam views its national security closely linked to regional and international security and that it stands ready to be a trustworthy friend and partner of countries in the international community, further promoting confidence building, developing friendly and cooperative relationship with neighbouring countries and those in the region and the world for peace, stability and development.

VNA


(Theo www.phungquangthanh.com)

Kho KV1 “Tuyển dân” làm chiến sĩ cảnh giới


Đến Kho KV1 trời đã sẩm tối, đón chúng tôi ngay tại cổng là Đại tá Nguyễn Văn Tuấn, Chỉ huy trưởng đơn vị. Sau cái bắt tay, thấy tôi để ý đến bộ quân phục có vết loang của bụi xi măng, anh Tuấn giải thích:

- Mình vừa từ nơi lao động giúp dân về đến đây…

Đi theo anh Tuấn, chúng tôi tới nơi cán bộ, chiến sĩ đơn vị đang cùng người dân thôn Toàn Tâm, xã Vân Nham, huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn) làm đường bê tông liên thôn. Lúc này điện đã được các chiến sĩ của Phân đội Cần vụ Bốc xếp đấu nối sáng cả đoạn đường. Tiếng máy trộn bê tông và tiếng nói, tiếng cười vang lên tạo ra không khí của một công trường vui nhộn. Để giới thiệu về đặc điểm công việc, anh Tuấn phải ghé vào tai tôi:

Chiến sĩ Kho KV1 giúp nhân dân thôn Toàn Tâm, xã Vân Nham, huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn) làm cỏ ngô.

- Bộ phận lao động được chia thành 4 nhóm, gồm: Chuyển vật liệu, vận hành máy trộn bê tông, san sạt đầm chắc, hoàn thiện. Quân số của các nhóm là 57 người (trong đó đơn vị 30, thôn 27). Con đường này dài 1.400m, rộng 3,5m, bê tông đổ dày 16cm. Tiền vật liệu gần 1 tỷ đồng do đơn vị đầu tư từ quỹ tăng gia và nguồn kinh phí trên cấp. Tới hôm nay là hết 400 công lao động…

Nói rồi anh Tuấn giới thiệu với chúng tôi ông Chu Văn Thực, Trưởng thôn Toàn Tâm. Ông Thực vui vẻ:

- Thủ trưởng vừa cùng tôi khênh xi măng, rồi lại vội vàng đi đón các nhà báo đấy. Việc không còn nhiều nên ai cũng cố gắng, xong lúc nào nghỉ lúc đó. Bà con trong thôn mong có đường bê tông lắm các anh ạ!

Tối hôm sau chúng tôi cùng các đồng chí trong Ban Tham mưu Kế hoạch đi kiểm tra công tác tuần tra, canh gác. Đến Phân đội Cảnh Vệ đã là 21 giờ mà bếp ăn vẫn còn sáng đèn. Thấy 5 người đang vây quanh nồi cơm, tôi tò mò hỏi:

- Các anh ăn uống muộn thế?

- Chúng tôi vừa đi giúp dân làm cỏ lúa về, mời các thủ trưởng và các anh dùng cơm – Thiếu úy QNCN Nguyễn Văn Phượng, nhân viên cảnh vệ niềm nở.

Chuyện giúp dân làm cả tối như hai lần tôi được chứng kiến, theo các đồng chí trong Ban chỉ huy Kho thì đó là chuyện bình thường ở đây. Đại tá Lê Văn Núi, Chính trị viên Kho còn kể, có những đợt đơn vị phải làm đêm giúp dân trong vòng nửa tháng. Đó là thời gian thi công đập tràn Cầu Bèo, thuộc thôn Liêng, xã Thanh Sơn, huyện Hữu Lũng. Đơn vị chủ động khai thác gần 200m3 đá, cát, sỏi tại chỗ; phân ra nhiều ca làm ngày làm đêm để  bảo đảm tiến độ thi công trước mùa mưa.

Anh Núi tâm sự: ”Kho quân khí đóng quân xa trung tâm, địa hình rừng núi, phạm vi rộng… Muốn bảo vệ kho an toàn từ vòng ngoài phải bắt đầu từ “tai mắt” của nhân dân. Bởi vậy, công tác dân vận được coi là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm của đơn vị. Theo đó, Đảng ủy, chỉ huy Kho đến các phân đội đều có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên”.

Anh Núi cho tôi xem hệ thống nghị quyết, kế hoạch của đơn vị. Nội dung chỉ tiêu được xác định cụ thể, phân công trách nhiệm rõ ràng từng cán bộ. Từ nhiều năm nay, cùng với việc làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, chỉ huy đơn vị chủ động trao đổi nắm tình hình ở địa phương, từ đó xây dựng kế hoạch, triển khai thực hiện đạt hiệu quả thiết thực. Các phân đội phát huy vai trò của đội ngũ cấp ủy phụ trách công tác dân vận, chiến sĩ dân vận, thành lập các tổ chuyên trách như tổ thợ mộc, tổ thợ xây, các đội thể thao, văn nghệ… khi địa phương có công việc phù hợp là huy động được ngay. Ngoài ra, các phân đội chủ động phối hợp với đơn vị kết nghĩa tổ chức các hoạt động tình nguyện, từ thiện của Đoàn thanh niên, công đoàn, phụ nữ, như ngày thứ bảy tình nguyện, chủ nhật xanh, đỡ đầu các gia đình chính sách trên địa bàn, tổ chức các hoạt động vui chơi trong các dịp lễ, Tết… Từ cách làm đó mà tình cảm của quân và dân ngày càng bền chặt, nhân dân trên địa bàn cung cấp nhiều nguồn tin có giá trị cho đơn vị, qua đó cấp ủy, chỉ huy kịp thời xử trí các tình huống, kho luôn  bảo đảm an toàn tuyệt đối.

Ông Trần Dũng, Chủ tịch UBND xã Vân Nham, huyện Hữu Lũng (Lạng Sơn) cho rằng:

- Tình cảm của cán bộ, chiến sĩ đơn vị dành cho người dân trong xã đã thôi thúc chúng tôi có trách nhiệm bảo vệ kho. Mỗi người dân đều coi mình như chiến sĩ đã được đơn vị tin tưởng tuyển chọn làm nhiệm vụ cảnh giới vòng ngoài.

Còn Đại tá Lê Văn Núi thì khẳng định :

- Dân vận tốt chính là yếu tố quan trọng để xây dựng kho an toàn, đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Nhà nước 2 lần phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng LLVT nhân dân (năm 1973, 2000).

Bài và ảnh: Mè Quang Thắng


(Theo www.phungquangthanh.com)

Đại tướng Phùng Quang Thanh: An ninh của Việt Nam gắn liền với an ninh khu vực


Ngày 5/6, trong bài phát biểu với chủ đề “Ứng phó với các thách thức an ninh biển mới” tại phiên họp toàn thể, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh nhận định tình hình Biển Đông nhìn chung vẫn ổn định, nhưng đôi khi vẫn xảy ra các va chạm, gây lo ngại cho các quốc gia ven biển.

 

Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 10. (Nguồn: AFP)

Phát biểu tại Hội nghị an ninh châu Á lần thứ 10 (Đối thoại Shangri-La 10) diễn ra ở Singapore, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định: Việt Nam luôn coi an ninh quốc gia của mình gắn liền với an ninh khu vực và thế giới, mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế.

Gần đây nhất là vụ ngày 26/5, tàu khảo sát Bình Minh 02 của Việt Nam bị cắt cáp thăm dò khi đang hoạt động thăm dò dầu khí bình thường trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam, gây lo ngại đến việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như khu vực và trên thế giới.

Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định Việt Nam luôn coi an ninh quốc gia của mình gắn liền với an ninh khu vực và thế giới, mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tăng cường xây dựng lòng tin, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và thế giới, vì hòa bình, ổn định và phát triển.

Sau bài phát biểu, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã giải đáp rõ ràng, hợp lý các câu hỏi liên quan tới những diễn biến gần đây ở Biển Đông và chính sách quốc phòng của Việt Nam.

Đại tướng Phùng Quang Thanh nêu rõ hiện ở Biển Đông đang có tranh chấp chủ quyền giữa các nước, gồm Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei. Vùng biển này chưa phân định được nên thỉnh thoảng trên Biển Đông vẫn xảy ra những vụ việc đáng tiếc.

Không chỉ có vụ việc ngày 26/5 vừa qua mà vào năm 2010, khi Việt Nam khảo sát để lập hồ sơ báo cáo với Liên hợp quốc về đường ranh giới ngoài của thềm lục địa, tàu của Việt Nam cũng bị tàu của Trung Quốc cắt cáp thăm dò.

Ngoài ra, còn có các vụ Trung Quốc bắt tàu cá, ngăn cản Việt Nam thăm dò dầu khí ở Biển Đông trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Những vụ việc như vậy vi phạm luật pháp quốc tế và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây lo ngại cho Việt Nam và các nước trong khu vực.

Về việc hoạch định vùng đánh cá cho ngư dân, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định Việt Nam luôn tuân theo UNCLOS 1982 và hướng dẫn khu vực đánh cá trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam cho ngư dân.

Tuy nhiên, đôi khi ngư dân Việt Nam cũng vi phạm vùng biển của các nước xung quanh và ngư dân các nước vi phạm vùng biển của Việt Nam. Những vụ việc như vậy cần được xử lý theo luật pháp quốc tế, theo tinh thần láng giềng hữu nghị và nhân đạo chứ không được xâm phạm thân thể và tài sản của ngư dân.

Đại tướng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh cần phải có sự hợp tác chặt chẽ về nghề cá giữa các nước, có tuần tra chung của hải quân, thiết lập đường dây nóng để duy trì an ninh, trật tự trên biển, tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân làm ăn.

Đại tướng Phùng Quang Thanh nêu rõ hàng năm, vào mùa cá sinh sản, Trung Quốc thường ban hành lệnh cấm đánh bắt để bảo vệ nguồn lợi thủy sản, nhưng Trung Quốc đã ban hành lệnh cấm đánh bắt cá vào cả vùng biển của Việt Nam. Đây là việc làm Việt Nam không đồng tình và đã phản đối qua đường ngoại giao.

Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định Việt Nam chủ trương những tranh chấp song phương ở Biển Đông cần được giải quyết song phương, những tranh chấp đa phương cần được đàm phán đa phương.

Theo Đại tướng Phùng Quang Thanh, “Đường 9 khúc” mà Trung Quốc tuyên bố là tranh chấp đa phương, “Đường 9 khúc” này không có cơ sở pháp lý, không đúng với UNCLOS 1982. Trung Quốc cần đàm phán giải quyết với các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, trên tinh thần hữu nghị, đưa ra giải pháp công bằng, hợp lý mà các bên có thể chấp nhận để đạt được mục đích hòa bình và phát triển trong khu vực.

Đại tướng Phùng Quang Thanh cho biết Việt Nam chủ trương tổ chức giao lưu văn hóa, thể thao cho lực lượng vũ trang của Việt Nam và Philippines đang đóng ở Song Tử Tây của Việt Nam và Song Tử Đông do Philippines đang quản lý, để xây dựng lòng tin, tăng cường hữu nghị và giảm căng thẳng, không xảy ra xung đột.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh cũng cho rằng trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN, Indonesia đã phối hợp rất chặt chẽ với các nước ASEAN nhằm duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông.

Tại Hội nghị ADMM-5 diễn ra tháng trước tại Jakarta, các bộ trưởng đã đạt được sự đồng thuận về đánh giá tình hình, đưa ra giải pháp để duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông. Đặc biệt, trong tuyên bố chung của hội nghị, các bên cam kết thực hiện đầy đủ DOC, tiến tới ASEAN cùng Trung Quốc xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Về câu hỏi tại sao Đài Loan tới nay không có cơ hội tham gia giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, Đại tướng Phùng Quang Thanh nói rằng đây là vấn đề nằm trong chính sách “một Trung Quốc.” Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Đài Loan và Trung Quốc cần bàn bạc nội bộ để có một đại diện chung.

Liên quan tới việc Việt Nam mua tàu ngầm, Đại tướng Phùng Quang Thanh nêu rõ Việt Nam đã ký hợp đồng mua của Liên bang Nga 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo 686. Các tàu ngầm này sẽ chỉ hoạt động trong vùng biển của Việt Nam. Việc làm bình thường này rất công khai và minh bạch.

Đại tướng Phùng Quang Thanh cũng cho biết thêm Việt Nam đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong tình hình hiện nay, phát triển kinh tế được xác định là nhiệm vụ trung tâm và bảo đảm quốc phòng-an ninh để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên.

Khi kinh tế phát triển, Việt Nam từng bước hiện đại hóa quân đội, trong đó ưu tiên hiện đại hóa hải quân, phòng không-không quân, thông tin liên lạc… để bảo vệ hòa bình, bảo vệ đất nước. Chính sách quốc phòng của Việt Nam là tự vệ, chứ không nhằm vào nước khác và không bao giờ đi xâm lấn bờ cõi của nước khác.

Về câu hỏi liên quan tới bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt tại Đối thoại Shangri-La 10, Đại tướng Phùng Quang Thanh hoan nghênh và đánh giá cao bài phát biểu này, cho rằng bài phát biểu thể hiện rõ đường đối ngoại hòa bình và trách nhiệm của Trung Quốc trong quá trình phát triển hòa bình.

Việt Nam luôn coi việc Trung Quốc, một nước xã hội chủ nghĩa, phát triển hòa bình, có quan hệ hữu nghị, đoàn kết và hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó có Việt Nam, là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam, cho khu vực và thế giới. Đại tướng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh Việt Nam luôn mong muốn Trung Quốc thực hiện đúng như những tuyên bố của nước này với thế giới.

Tối 5/6, Đại tướng Phùng Quang Thanh và Đoàn đại biểu Việt Nam đã về đến Hà Nội, kết thúc tốt đẹp chuyến đi dự Đối thoại Shangri-La 10./.


(Theo www.phungquangthanh.com)

Đại tướng Phùng Quang Thanh: Ứng phó với các thách thức an ninh biển mới


Ngày 5/6, trong bài phát biểu với chủ đề “Ứng phó với các thách thức an ninh biển mới” tại phiên họp toàn thể, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, Đại tướng Phùng Quang Thanh nhận định tình hình Biển Đông nhìn chung vẫn ổn định, nhưng đôi khi vẫn xảy ra các va chạm, gây lo ngại cho các quốc gia ven biển.

Sau bài phát biểu “Ứng phó với các thách thức an ninh biển mới” tại phiên họp toàn thể của Đối thoại Shangri – La 10, Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh đã giải đáp rõ ràng, hợp lý các câu hỏi liên quan tới những diễn biến gần đây ở Biển Đông và chính sách quốc phòng của Việt Nam. An ninh biển là vấn đề được đặc biệt quan tâm tại Hội nghị an ninh châu Á lần thứ 10 (Đối thoại Shangri-La 10) diễn ra ở Singapore.

Đại tướng Phùng Quang Thanh phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 10. Ảnh: qdnd.vn

Gần đây nhất là vụ ngày 26/5, tàu khảo sát Bình Minh 02 của Việt Nam bị cắt cáp thăm dò khi đang hoạt động thăm dò dầu khí bình thường trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam, gây lo ngại đến việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như khu vực và trên thế giới.

Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định Việt Nam luôn coi an ninh quốc gia của mình gắn liền với an ninh khu vực và thế giới, mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tăng cường xây dựng lòng tin, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và thế giới, vì hòa bình, ổn định và phát triển.

Sau bài phát biểu, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã giải đáp rõ ràng, hợp lý các câu hỏi liên quan tới những diễn biến gần đây ở Biển Đông và chính sách quốc phòng của Việt Nam.

Đại tướng Phùng Quang Thanh nêu rõ hiện ở Biển Đông đang có tranh chấp chủ quyền giữa các nước, gồm Trung Quốc, Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei. Vùng biển này chưa phân định được nên thỉnh thoảng trên Biển Đông vẫn xảy ra những vụ việc đáng tiếc. Những vụ việc như vậy vi phạm luật pháp quốc tế và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây lo ngại cho Việt Nam và các nước trong khu vực.

Về việc hoạch định vùng đánh cá cho ngư dân, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định Việt Nam luôn tuân theo Công ước về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982) và hướng dẫn khu vực đánh cá trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam  cho ngư dân. Tuy nhiên, đôi khi ngư dân Việt  Nam cũng vi phạm vùng biển của các nước xung quanh và ngư dân các nước vi phạm vùng biển của Việt Nam. Những vụ việc như vậy cần được xử lý theo luật pháp quốc tế, theo tinh thần láng giềng hữu nghị và nhân đạo chứ không được xâm phạm thân thể và tài sản của ngư dân.

Đại tướng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh cần phải có sự hợp tác chặt chẽ về nghề cá giữa các nước, có tuần tra chung của hải quân, thiết lập đường dây nóng để duy trì an ninh, trật tự trên biển, tạo điều kiện thuận lợi cho ngư dân làm ăn.

Đại tướng Phùng Quang Thanh nêu rõ hàng năm, vào mùa cá sinh sản, Trung Quốc thường ban hành lệnh cấm đánh bắt để bảo vệ nguồn lợi thủy sản, nhưng Trung Quốc đã ban hành lệnh cấm đánh bắt cá vào cả vùng biển của Việt Nam. Đây là việc làm Việt Nam không đồng tình và đã phản đối qua đường ngoại giao.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh khẳng định Việt Nam chủ trương những tranh chấp song phương ở Biển Đông cần được giải quyết song phương, những tranh chấp đa phương cần được đàm phán đa phương. Theo Đại tướng Phùng Quang Thanh, “Đường 9 khúc” mà Trung Quốc tuyên bố là tranh chấp đa phương.

“Đường 9 khúc” này không có cơ sở pháp lý, không đúng với UNCLOS 1982. Trung Quốc cần đàm phán giải quyết với các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, trên tinh thần hữu nghị, đưa ra giải pháp công bằng, hợp lý mà các bên có thể chấp nhận để đạt được mục đích hòa bình và phát triển trong khu vực

Đại tướng Phùng Quang Thanh cho biết Việt Nam chủ trương tổ chức giao lưu văn hóa, thể thao cho lực lượng vũ trang của Việt Nam và Philippines đang đóng ở Song Tử Tây của Việt Nam và Song Tử Đông do Philippines đang quản lý, để xây dựng lòng tin, tăng cường hữu nghị và giảm căng thẳng, không xảy ra xung đột.

Bộ trưởng Phùng Quang Thanh cũng cho rằng trong nhiệm kỳ Chủ tịch ASEAN, Indonesia đã phối hợp rất chặt chẽ với các nước ASEAN nhằm duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông. Tại Hội nghị ADMM-5 diễn ra tháng trước tại Jakarta, các Bộ trưởng đã đạt được sự đồng thuận về đánh giá tình hình, đưa ra giải pháp để duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông. Đặc biệt, trong Tuyên bố chung của Hội nghị, các bên cam kết thực hiện đầy đủ DOC, tiến tới ASEAN cùng Trung Quốc xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Về câu hỏi tại sao Đài Loan tới nay không có cơ hội tham gia giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, Đại tướng Phùng Quang Thanh nói rằng đây là vấn đề nằm trong chính sách “một Trung Quốc”. Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc. Đài Loan và Trung Quốc cần bàn bạc nội bộ để có một đại diện chung.

Liên quan tới việc Việt Nam mua tàu ngầm, Đại tướng Phùng Quang Thanh nêu rõ Việt Nam đã ký hợp đồng mua của LB Nga 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo 686. Các tàu ngầm này sẽ chỉ hoạt động trong vùng biển của Việt Nam. Việc làm bình thường này rất công khai và minh bạch.

Đại tướng Phùng Quang Thanh cũng cho biết thêm Việt Nam  đang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong tình hình hiện nay, phát triển kinh tế được xác định là nhiệm vụ trung tâm và bảo đảm quốc phòng – an ninh để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên.

Khi kinh tế phát triển, Việt Nam từng bước hiện đại hóa quân đội, trong đó ưu tiên hiện đại hóa hải quân, phòng không – không quân, thông tin liên lạc,… để bảo vệ hòa bình, bảo vệ đất nước. Chính sách quốc phòng của Việt Nam là tự vệ, chứ không nhằm vào nước khác và không bao giờ đi xâm lấn bờ cõi của nước khác.

Về câu hỏi liên quan tới bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt tại Đối thoại Shangri-La 10, Đại tướng Phùng Quang Thanh hoan nghênh và đánh giá cao bài phát biểu này, cho rằng bài phát biểu thể hiện rõ đường đối ngoại hòa bình và trách nhiệm của Trung Quốc trong quá trình phát triển hòa bình.

Việt Nam luôn coi việc Trung Quốc, một nước xã hội chủ nghĩa, phát triển hòa bình, có quan hệ hữu nghị, đoàn kết và hợp tác với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới, trong đó có Việt Nam, là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam, cho khu vực và thế giới. Đại tướng Phùng Quang Thanh nhấn mạnh Việt Nam luôn mong muốn Trung Quốc thực hiện đúng như những tuyên bố của nước này với thế giới.

Tối 5/6, Đại tướng Phùng Quang Thanh và Đoàn đại biểu Việt Nam đã về đến Hà Nội, kết thúc tốt đẹp chuyến đi dự Đối thoại Shangri-La 10.

Nguyễn Chiến

 


(Theo www.phungquangthanh.com)